Trước kia trong sử sách, thông dụng hay dùng là Lý Bôn. Ngà y nay thường gọi là Lý Bí. Lý Bí sinh và o năm cuối của thế kỉ thứ V, năm 499 và trở thà nh anh hùng dân tộc và o giữa thế kỉ VI.
Khởi đầu là việc dừng cử khởi nghĩa và o năm 52 chống lại nhà Lương ở phương Bắc sang đô hộ nước Đại Việt. Đó là cuộc khởi nghĩa toà n dân có rất nhiửu anh tà i, dũng sĩ khắp nơi kéo vử ủng hộ. Văn có Tĩnh Thiửu, Triệu Túc. Võ có Phạm Tu, Lý Phúc Man. Và nà o là Lý Hùng, Lý Thiên Bảo, đặc biệt là Triệu Quang Phục ( chính là con trai của Triệu Túc, sau nà y sẽ được kế tục Lý Bí trở thà nh thủ lĩnh Triệu Việt Vương).
Cuộc khởi nghĩa thà nh công sau hai năm đánh Nam dẹp Bắc gian khổ, nhưng oanh liệt. Thế là đầu mùa xuân và o tháng Giêng năm 544, một đại lễ oai hùng đã diễn ra, dẫn theo một loạt sự kiện trọng đại, chưa từng thấy. Đặc biệt đửu là nhũng miửn trung tâm của đất nước lúc bấy giử. Sau nà y chính là đất Thăng Long “ Hà Nội.
Đầu tiên là lễ đăng quang lên ngôi Hoà ng đế của thủ lĩnh Lý Bí. Đây là lần đầu tiên một người nước Việt xưng Đế. Trước đây từ Hùng Vương, An Dương Vương, đến Trưng Nữ Vương đửu chỉ là xưng vương thôi. Thì ai chả biết, Đế hay Vương cũng đửu là vua cả! Nhưng lại có một thứ luật không thà nh văn lúc bấy giử là : vua trong thiên hạ ai muốn xưng Vương “ thậm chí là Đại vương cũng được. Nhưng, duy nhất chỉ có một người có quyửn xưng Đế thôi, ấy là Hoà ng đế nước Trung Hoa ở phương Bắc. Vì thế Lý Bí là người đầu tiên ở phương Nam xưng Đế cực kì quan trọng. các danh hiệu Lý Nam Việt Đế tuy chỉ là danh hiệu, nhưng ý nghĩa lại là : Tôi “ họ Lý ( tên Bí) ở nước Việt, phương Nam, là m Hoà ng Đế là bình đẳng ( tự giác, tự hà o, tự tôn) dân tộc với Hoà ng Đế phương Bắc.
Vậy là vị Hoà ng Đế nước Việt phương Nam sau khi đăng quang đã tiếp tục thể hiện tinh thần độc lập, tự cường, bằng việc đặt tên cho nước. Lệnh ban bố Quốc hiệu Vạn Xuân, cũng mang ý nghĩ như danh hiệu Lý Nam Đế. Bởi mùa xuân là cả vạn mùa xuân. Thế thì sự tươi tốt ấy sẽ trường tồn, vĩnh cửu.
Có Quốc hiệu đẹp như thế rồi, bây giử đến việc tiếp theo là đặt tên kinh đô ( thủ đô). Nhưng sử cũ chép rõ là : có xây Đà i vạn xuân là m chỗ triửu hội trăm quan. Thế thì cái Đà i vạn xuân nà y cũng chính là một hình thái kinh đô( thủ đô) rồi. Và như thế ở đây thêm một điểm giống thời Hùng Vương, tên nước là Văn Lang. Lý Nam Đế khi lấy tên Vạn Xuân đặt cho cả tên nước lẫn tên kinh đô thì đó chính là việc kế tục truyửn thống: Đô hiệu cũng là Quốc hiệu.
Trung tâm hà nh chính, chính trị với Đô hiệu là Vạn Xuân liửn đấy còn được Lý Nam Đế tạo dựng cho một trung tâm văn hóa nữa “ đó chính là ngôi chùa Khai Quốc ( mở nước) mang ý nghĩa mở mang đất nước, mở mang đô thà nh Vạn Xuân. Đồng thời, cái tên nà y được mở ra truyửn thống đặt các tên tiếp theo cho ngôi chùa cổ (lâu đời) nhất của Thăng Long “ Hà Nội từ 1500 năm vử trước, đã thể hiện đầy đủ ý nghĩa và thà nh phần một đô thị do Lý Nam Đế khai sáng, từ giữa thế kỷ VI để cho Lý Thái Tổ và chính thức khai sinh và o năm 1010.