Mới đây tạp chí Liêu vọng của Trung Quốc đã đăng tải bà i viết vử những dấu hiệu chiến tranh mà các nhà lãnh đạo nước nà y cần lưu ý để đưa ra quyết sách phù hợp. Nội dung bà i viết như sau.
Phán đoán, nắm bắt thời cơ
Khi quan sát và phân tích các dấu hiệu xảy ra chiến tranh cần hết sức chú ý, đồng thời tầng lớp lãnh đạo đưa ra quyết sách phải hết sức thận trọng khi phán đoán chiửu hướng của mâu thuẫn và đưa ra quyết sách ứng chiến.
Bất kử³ cuộc chiến tranh nà o đửu có một quá trình từ khi nung nấu đến khi xảy ra. Xét vử ý nghĩa nà y, chiến tranh không thể nổ ra một cách bất ngử, cà ng không thể tự nhiên mà có, ngược lại, thông thường nó đửu có dấu hiệu, đầu mối có thể quan sát. Đôi lúc, dấu hiệu nà y thậm chí không cần dựa và o các công cụ bí mật hoặc vũ khí tiên tiến như điệp viên, vệ tinh, giải mã. Đơn giản đến mức chỉ cần dùng mắt thật là quan sát thấy, chỉ dựa và o thường thức là có thể phán đoán.
Như trước thời điểm nổ ra chiến tranh Yom Kippur (chiến tranh Trung Đông lần thứ 4), lực lượng quân đội tiên phong của Israel đã quan sát thấy sự triển khai của quân đội Ai Cập và Syria, từ đó xác định chiến tranh sắp nổ ra, lữ đoà n trưởng quân đội Israel. Thượng tá Avid còn dự đoán được chuẩn xác rằng muộn nhất là đến ngà y 6-10, chiến tranh sẽ nổ ra.
Dựa và o sự quan sát và phán đoán nà y, quốc gia còn có thể nắm bắt thời cơ cuối cùng để thay đổi quyết tâm, đồng thời thông qua các biện pháp như điửu chỉnh lực lượng quân sự để đối phó với tình huống khẩn cấp. Trong chiến tranh thế giới thứ hai, Ba Lan đã từng vì có được lời dự báo sớm hơn 1 tuần mà điửu động lực lượng quân đội chủ lực đóng ở phía Đông sang phía Tây. Liên Xô còn dự đoán được sớm trước gần 2 tháng để bố trí lực lượng trên quy mô lớn sang khu vực phía Tây.
Do hình thái chiến tranh luôn ở trong trạng thái diễn biến, phát triển không ngừng, và cho đến nay vẫn chưa kết thúc, đồng thời từ trước đến nay, mỗi cuộc chiến tranh có một đặc điểm riêng, dấu hiệu chiến tranh của mỗi thời kử³ cũng không giống nhau. Xét vử tổng thể, chiến tranh hiện đại đang trải qua một quá trình thay đổi từ ít yếu tố đến nhiửu yếu tố, từ tín hiệu rõ rà ng đến tín hiệu mơ hồ, từ thời điểm dự báo khá sớm đến thời điểm dự báo khó xác định.
6 dấu hiệu quan trọng
Dựa và o thời gian và cường độ, dấu hiệu chiến tranh hiện đại thường bao gồm 6 nội dung sau.
Hòa giải vử ngoại giao thất bại
Chủ yếu là các hoạt động điửu tra ngoại giao, điửu đình, hòa giải, đà m phán... được triển khai tập trung xung quanh mâu thuẫn trước đó chính thức bị coi là thất bại, các nước, tổ chức, khu vực hoặc tổ chức quốc tế từ bử nỗ lực tiếp theo, tranh chấp không thể hòa giải được nữa, thậm chí chỉ còn lại biện pháp giải quyết bằng thủ đoạn quân sự. Đi liửn với đó còn bao gồm các dấu hiệu nhử hơn như cắt đứt quan hệ ngoại giao, đóng cửa đại sứ quán tại nước đối phương, cắt đứt liên lạc giao thông, rút kiửu dân nước mình vử nước...
Như ngà y 2-8-1990, sau khi Iraq xâm lược Kuwait, chính phủ Mử¹ đã triển khai hà ng loạt hoạt động điửu đình ngoại giao, nhưng đửu không đạt được mục đích để Iraq rút quân. Tiếp theo, ngà y 10-1-1991, Mử¹ và các nước phương Tây đã hoà n thà nh việc đưa người dân rời Baghdad, đại sứ quán và người dân của các quốc gia khác cũng bắt đầu dồn dập rời Baghdad. Sau khi các biện pháp trên hoà n thà nh không lâu, chiến tranh đã nổ ra như những gì người ta dự đoán.
Nâng cao cấp độ cảnh giới quân sự
Chủ yếu là nâng cao cấp độ cảnh giới quân sự khác thường, mệnh lệnh toà n bộ hoặc một phần lực lượng bước và o trạng thái sẵn sà ng chiến đấu. Trong tình huống nà y, binh lính và sĩ quan trong các lượng lượng quân đội có liên quan dừng mọi hoạt động nghỉ phép và thông báo cho các quân nhân đang nghỉ phép ở ngoà i lập tức trở lại doanh trại, đồng thời gấp rút bổ sung vật tư phục vụ cho chiến tranh, sẵn sà ng tiếp nhận mệnh lệnh xuất quân.
Như ngà y 8-8-2008, Nga và Gzuria xảy ra chiến tranh (chiến tranh Nam Ossetia), trước đó, ngà y 16-7, quân đội Nga bắt đầu tử ra cảnh giác trước cuộc tập trận chung giữa Mử¹ và Gruzia đồng thời quyết định quân đoà n 58 sau khi kết thúc cuộc tập trận Caucasus -2008 sẽ tiếp tục ở lại tập trận khu vực, từ đó có thể thực hiện các khâu bọc lót, hoà n thà nh mọi công tác chuẩn bị tác chiến và bắt đầu thực hiện hà nh động vượt biên giới sau khi nhận mệnh lệnh lúc 2h 20, ngay cả quân đội Mử¹ cũng buộc phải thừa nhận rằng hà nh động thực tế của Nga nhanh hơn rất nhiửu so với sự dự đoán của chúng tôi.
Tổng động viên chiến tranh
Chủ yếu là triệu tập lực lượng quân nhân dự bị nhập ngũ và nhanh chóng đưa và o quân ngũ, đồng thời đưa toà n bộ hoặc một phần lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội trong nước và o thể chế quản lý và vận hà nh trong chiến tranh. Trong đó bao gồm các dấu hiệu nhử như ra lệnh quân nhân dự bị có mặt ở địa điểm nà o đó trong thời gian ngắn, quản chế theo thời gian xảy ra chiến tranh trên toà n quốc hoặc khu vực, tuyên bố huy động những vật tư đặc biệt mang tính bắt buộc, mệnh lệnh cho các công xưởng có liên quan bước và o giai đoạn sản xuất trong chiến tranh, hạn chế sự tự do đưa tin của báo chí...
Như trước khi xảy ra chiến tranh Trung Đông lần thứ 3 (Chiến tranh Sáu ngà y), quân đội Israel đã công bố lệnh động viên nhập ngũ trên quy mô nhử trước gần 1 tháng. Mấy ngà y sau lại ra lệnh động viên trên quy mô lớn, chỉ sau mấy ngà y là lệnh tổng động viên toà n diện. Sau đó chưa đầy 2 tuần, chiến tranh bắt đầu nổ ra.
Triển khai lực lượng vũ trang
Chủ yếu là tập kết trên quy mô lớn ở tiửn tuyến, vận chuyển, bố trí lực lượng nhiệm vụ và trang bị tương ứng, dựa và o nhiệm vụ và phương hướng để triển khai. Sự triển khai nà y phụ thuộc và o quy mô chiến tranh, có thể là cả ba quân triển khai toà n diện, cũng có thể là từng lực lượng triển khai, đôi lúc còn có thể là một số binh khí và vũ khí buộc phải triển khai trước, mục đích là đảm bảo cho lực lượng quân sự thực hiện được nhiện vụ tác chiến theo yêu cầu.
Như trước khi xảy ra chiến tranh Yom Kippur, quân đội Ai Cập đã triển khai 5 sư đoà n bộ binh, 2 sư đoà n cơ khí hóa, 2 sư đoà n tăng thiết giáp và một số lữ đoà n độc lập ở bử Tây kênh đà o Suez, quân đội Syria lại triển khai 3 sư đoà n bộ binh, 2 sư đoà n tăng thiết giáp và một số lữ đoà n độc lập ở phía Tây cao nguyên Golan. Trước chiến tranh vùng Vịnh, quân đội các nước đã tập kết 7 mẫu hạm, 2.778 máy bay và 680.000 binh lực ở khu vực vùng Vịnh. Trước khi nổ ra chiến tranh vùng Vịnh và chiến tranh Afghanistan, các hà nh động của máy bay oanh tạc B-52 (Mử¹) như liên tiếp cất cánh hạ cánh, chuyển địa điểm, vận chuyển 500.000 thùng nhiên liệu hà ng không cho các căn cứ quân sự..., đửu đồng nghĩa với việc chiến tranh đã bước và o giai đoạn đếm ngược thời gian.
Ra thông điệp cuối cùng
Chủ yếu là do nguyên thủ quốc gia hoặc đầu não chính phủ thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như truyửn hình, phát thanh, báo in.., hoặc gửi công hà m ngoại giao, phát thông điệp cho quốc gia hoặc tập đoà n đối phương, yêu cầu đối phương chấp nhận điửu kiện hoặc thực hiện nghĩa vụ trong thời hạn nhất định, nếu không sẽ áp dụng lệnh trừng phạt vử quân sự đối với họ.
Như năm 2002 - trước khi nổ ra chiến tranh Iraq, đầu tiên, tại hội nghị Liên hợp quốc, chính phủ Mử¹ cáo buộc Iraq sở hữu vũ khí hủy diệt hà ng loạt trên quy mô lớn, sau đó Thượng và Hạ viện Mử¹ nhất trí trao quyửn cho chính phủ dùng vũ lực giải quyết vấn đử. Ngà y 18-3-2003, tổng thống Bush đã ra thông điệp cuối cùng với Iraq, yêu cầu ông Saddam Hussein phải rời Iraq trong vòng 48 giử đồng hồ, nếu không Mử¹ sẽ phát động chiến tranh. Sáng sớm ngà y 20-3, chiến tranh chính thức nổ ra.
Thực hiện hà nh động đối địch
Chủ yếu là các hoạt động quân sự của một quốc gia nhằm và o đối thủ như tập trận quân sự, gây nhiễu điện tử mạnh, phong tửa quân sự trên biển, trên không, nổ súng lẻ tẻ hoặc pháo kích...thậm chí có những hoạt động khiêu khích ở mức độ mạnh...
Như trước khi tham gia và o chiến tranh Lybia, quân đội NATO đã dựa và o nghị quyết thiết lập vùng cấp bay ở Lybia mà Hội đồng Liên hợp quốc thông qua, trao quyửn cho các nước có liên quan có thể áp dụng mọi biện pháp cần thiết bảo vệ người dân Lybia thoát khửi sự đe dọa của các cuộc tấn công vũ trang. Sau khi nghị quyết nà y được thông qua mấy giử đồng hồ, Pháp đã phát động tấn công với chính phủ Lybia. Anh cũng là nước tham gia và o cuộc chiến tranh nà y, ngay từ thời gian mới xảy ra bạo loạn ở Lybia, quốc gia nà y cũng đã tích cực đử xướng thiết lập vùng cấm bay và can thiệp vử mặt quân sự. Xét vử mặt nà y, có thể nói, chương trình nghị sự bử phiếu của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc đã biến thà nh chương trình nghị sự phát động chiến tranh của các nước có liên quan. Ngoà i ra, hầu hết trong các cuộc chiến tranh mà Mử¹ phát động mấy chục năm qua, sức ép điện tử, tấn công tâm lý, lính đặc chủng xâm nhập phá hoại... đửu là những biện pháp được sử dụng thường xuyên.
Bử qua dấu hiệu sẽ gặp bi kịch
Cần phải thấy được rằng, quá trình xảy ra chiến tranh hiện đại vô cùng phức tạp và thay đổi thất thường, không phải cuộc chiến nà o trước thời điểm xảy ra chiến tranh đửu xuất hiện những dấu hiệu trên, và cũng không phải xuất hiện những dấu hiệu nà y đồng nghĩa với việc chiến tranh là điửu không thể tránh khửi.
Như năm 1991, Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc quyết định thiết lập vùng cấp bay ở Iraq, nhưng quyết định nà y cũng chỉ gây ra một số xung đột và không trực tiếp gây ra chiến tranh trên quy mô lớn. Trong khi trong cuộc đối đầu giữa Israel và Syria năm 1985-1986, quân đội Israel đã có 5 lần ở trong trạng thái sẵn sà ng chiến đấu cao độ, nhưng cuối cùng chiến tranh vẫn không xảy ra.
Ngoà i ra, cũng có thể xuất hiện hiện một số phán đoán sai lầm. Như trước khi xảy ra chiến tranh Falkland và trước khi Iraq đưa quân và o Kuwait, Anh và Mử¹ đửu đã thông qua các biện pháp tình báo để phát hiện ra nhiửu dấu hiệu. Họ cuối cùng chỉ rút ra được kết luận dự đoán trước thời điểm cuối năm, Argentina sẽ không áp dụng bất cứ hà nh động quân sự gì và điửu nà y không chứng tử dấu hiệu nguy hiểm gì.
Chiến tranh Falkland là cuộc chiến diễn ra năm 1982 giữa Argentina và Vương quốc Anh nhằm tranh chấp quần đảo Falkland và quần đảo Nam Georgia và Nam Sandwich.
Cũng cần phải chỉ ra rằng, một số dấu hiệu bản thân rất khó quan sát và xác định, nhưng lệnh động viên chiến tranh thông thường đửu là bí mật quốc gia, bên ngoà i muốn quan sát và phát hiện cần phải có thời gian. Kể cả có đủ nhân lực tình báo và các phương tiện công nghệ cao hỗ trợ, nhưng nếu thiếu sự phân tích một cách có hệ thống trên tầm vĩ mô, hoặc nhà quyết sách nhận định không chính xác vấn đử, người ta vẫn có thể bử qua các dấu hiệu chiến tranh và dồn mình và o bi kịch chiến tranh.
Mọi cái gọi là dấu hiệu chiến tranh đửu chỉ là tương đối và cụ thể, thông thường chúng đửu chỉ là điửu kiện cần để xảy ra chiến tranh chứ không phải là điửu kiện đủ, có thể chỉ gây ra tranh chấp, khủng hoảng hoặc xung đột nhử chứ không hẳn là gây ra chiến tranh.
Trên thực tế, trong một số trường hợp đặc biệt, dù chỉ xuất hiện một số dấu hiệu cá biệt, một quốc gia đã có thể có đủ lý do để phát động chiến tranh. Tuy nhiên, trong hầu hết tình huống, cho dù đã thửa mãn mọi điửu kiện khai chiến, nhưng nhân loại cũng có đủ trí tuệ để dập tắt ngọn lửa chiến tranh.