Thiên anh hùng ca, trang sử vàng Điện Biên Phủ mãi là niềm tự hào, là biểu tượng sáng ngời của ý chí quyết tâm và sức mạnh của dân tộc Việt Nam. Góp phần tạo nên chiến thắng vẻ vang ấy, có biết bao tấm gương anh dũng hy sinh khi tuổi đời còn rất trẻ. Đó là: Bế Văn Đàn lấy vai làm giá súng, Tô Vĩnh Diện dùng thân chèn pháo, Trần Can hiên ngang dẫn đầu tiểu đội vượt qua lô cốt tiền duyên để xông vào sở chỉ huy, rồi cắm cờ lên lô cốt địch ở cứ điểm Him Lam…
Tô Vĩnh Diện sinh năm 1924, quê ở xã Nông Trường, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa. Nhà anh rất nghèo, lên 8 tuổi đã phải đi ở cho địa chủ. Suốt 12 năm đi ở, anh đã phải chịu đựng bao cảnh áp bức bất công. Cách mạng Tháng Tám thành công, anh thoát cảnh đi ở.
Năm 1946, quân viễn chinh của thực dân Pháp tái chiếm Đông Dương. Tô Vĩnh Diện tham gia chỉ huy dân quân ở địa phương. Năm 1950, tại Thanh Hóa nổ ra một vụ bạo loạn, khiến nhiều dân quân (trong đó có Tô Vĩnh Diện) bị bắt giữ. Chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải cử một đơn vị bộ đội xuống giải cứu. Từ đó, Tô Vĩnh Diện chính thức gia nhập Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Tháng 12/1953, Tô Vĩnh Diện cùng đơn vị về nước và ngay lập tức hành quân lên Điện Biên Phủ để chuẩn bị tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ. Đồng chí được điều về Đại đội 827, Tiểu đoàn 394, Trung đoàn phòng không 367, làm Tiểu đội trưởng pháo cao xạ 37mm.
Từ ngày 16 đến ngày 24/1/1954, được sự trợ giúp của bộ binh và công binh, các đơn vị pháo trong đó có đơn vị của đồng chí Tô Vĩnh Diện bắt đầu kéo pháo bằng sức người tới vị trí tập kết để tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ. Trên chặng đường hành quân dài khoảng 1.000km và khi kéo pháo qua những đoạn đường khó khăn gian khổ, Tô Vĩnh Diện luôn xung phong lái pháo, gương mẫu, động viên đồng đội đưa pháo đến nơi tập kết an toàn.
Để đảm bảo cho Chiến dịch Điện Biên Phủ chắc thắng, ngày 26/1/1954, Bộ Chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ quyết định đổi phương án tác chiến từ "Đánh nhanh, thắng nhanh" sang "Đánh chắc, tiến chắc". Các đơn vị pháo binh nhận được mệnh lệnh từ Bộ Chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ phối hợp với bộ binh kéo pháo ra, trong đó có đơn vị của Tô Vĩnh Diện. Kéo pháo vào đã gian khổ, khó khăn, kéo pháo ra lại càng gay go, trắc trở. Những lúc gặp chặng đường nguy hiểm, Tô Vĩnh Diện luôn xung phong ở những vị trí khó khăn để bảo đảm an toàn cho pháo.
Đêm ngày 1/2/1954, trời mưa, đường trơn, trên đường kéo pháo ra, tới dốc Chuối - một dốc nghiêng 70 độ, đường hẹp và cong rất nguy hiểm - Tô Vĩnh Diện cùng đồng chí Ty xung phong lái pháo. Nửa chừng, dây tời bị đứt, pháo lao nhanh xuống dốc, Tô Vĩnh Diện vẫn bình tĩnh giữ càng, lái cho pháo xuống thẳng đường. Nhưng không may, một trong bốn dây kéo pháo lại bị đứt tiếp, khẩu pháo càng lao nhanh, đồng chí Ty bị hất xuống suối.
2 giờ 30 phút ngày 1/2/1954, Tô Vĩnh Diện đã hy sinh tại rừng Pá Có, sườn phía tây Pha Sung, thuộc xã Nà Nhạn, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên. Sau đêm Tô Vĩnh Diện hy sinh để bảo vệ khẩu pháo, toàn Đại đội 827 đã nghiêm trang thề trước mộ người liệt sĩ anh hùng: “Noi gương đồng chí, chúng tôi sẽ chiến đấu đến cùng, tiêu diệt hết máy bay địch”.
Ngay trên mặt trận, Tô Vĩnh Diện được truy tặng Huân chương chiến công hạng Nhất. Sau đó, ngày 7-5-1956, đồng chí được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân và trở thành người anh hùng Pháo cao xạ đầu tiên của quân đội ta ngã xuống trên mặt trận Điện Biên Phủ. Hiện nay, hài cốt của đồng chí được Đảng và Nhà nước quy tập và an táng tại nghĩa trang Đồi A1, thành phố Điện Biên Phủ.
Phan Đình Giót sinh năm 1922 ở xóm Tam Quang, thôn Vĩnh Yên, xã Cẩm Quan, huyện Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh, trong một gia đình rất nghèo đã mấy đời chịu cảnh cày thuê, cuốc mướn. Bố mất sớm, hai anh em sống cùng mẹ trong một ngôi nhà tranh dột nát, xiêu vẹo. Đói quá, không có cái ăn Phan Đình Giót và em trai phải đi ở cho địa chủ từ lúc lên 6, lên 7.
Kháng chiến chống Pháp bùng nổ, cùng với bạn bè cùng trang lứa anh xin tham gia tự vệ chiến đấu. Đến năm 1950 thì anh xung phong đi bộ đội chủ lực. Những trận đánh có Phan Đình Giót đều lập được chiến công, có lần anh chích máu viết bản quyết tâm thư gửi lên đại đoàn, thể hiện chí khí hiên ngang của một con người đã giác ngộ và đi theo cách mạng. Chí khí đó, lòng dũng cảm đó của Phan Đình Giót đã được ghi nhận.
Mùa đông năm 1953, đơn vị của anh được lệnh tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ. Lực lượng gần 500 người, vượt qua nhiều đèo dốc, mang vác nặng nhưng anh vẫn kiên trì, giúp đồng đội về tới đích.
Sau đó, Phan Đình Giót đánh liên tiếp hai quả bộc phá nữa, phá hàng rào cuối cùng, mở thông đường để đồng đội lên đánh lô cốt đầu cầu. Quân Pháp hoang mang, lợi dụng thời cơ, ông vọt lên tiến công lô cốt số 2, ném thủ pháo, bắn yểm trợ cho đơn vị tiến lên. Trong đợt xung phong này, ông bị thương vào vai và đùi, mất máu rất nhiều. Bất ngờ, hỏa điểm lô cốt số 3 của lính Pháp bắn mạnh. Lực lượng xung kích Việt Nam bị chặn lại, Phan Đình Giót bò đến lô cốt số 3 với ý nghĩ là dập tắt ngay lô cốt này.
Quân ta nắm bắt thời cơ xông lên tiêu diệt gọn cứ điểm Him Lam vào ngày 13/3/1954, giành thắng lợi trong trận đánh mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ.
Phan Đình Giót hy sinh lúc 22 giờ 30 phút ngày 13/3/1954. Phan Đình Giót được nhận danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân ngày 31/3/1955. Khi hy sinh, anh là Tiểu đội phó bộ binh Đại đội 58, Tiểu đoàn 428, Trung đoàn 141, Đại đoàn 312, là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, được tặng Huân chương Quân công hạng Nhì.
Trần Can sinh năm 1931 trong một gia đình nông dân nghèo ở xã Sơn Thành, Yên Thành, Nghệ An gồm có 4 anh chị em. Ngay từ thuở nhỏ, Trần Can đã thể hiện được là một người sáng dạ và chịu khó. Tuy còn nhỏ nhưng để phụ giúp gia đình, Trần Can đã đi ở “hết nhà này đến nhà khác”, những lúc có thời gian, anh tham gia các lớp “Bình dân học vụ” vào ban đêm. Trần Can rất ham học nên sớm đọc thông, viết thạo và nhiều lần được thầy khen.
Tháng 5/1951, Trần Can xung phong nhập ngũ và được phân về Trung đoàn 209, Đại đoàn 312 (nay là Sư đoàn 312, Quân đoàn 1). Khi vào bộ đội, đồng chí chiến đấu rất dũng cảm, mưu trí. Dù chiến trường có khó khăn, ác liệt đến đâu, đồng chí đều kiên quyết dẫn đầu đơn vị vượt lên, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Cuối năm 1953, để chuẩn bị cho Chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử, đơn vị đồng chí Trần Can được giao nhiệm vụ mở đường kéo pháo và kéo pháo vào trận địa. Việc kéo pháo của bộ đội ta qua những đèo, núi vô cùng khó khăn, gian khổ, trong khi máy bay địch liên tục thả bom trên các tuyến đường nhằm ngăn chặn quân ta. Đồng chí Trần Can đã nhiều lần hăng hái dập lửa cứu pháo; mưu trí, dũng cảm đưa pháo về vị trí tập kết an toàn.
Trong trận đánh đồi Him Lam mở đầu cho chiến dịch Điện Biên Phủ, Trần Can được giao nhiệm vụ chỉ huy tiểu đội thọc sâu diệt sở chỉ huy và cắm lá cờ “Quyết chiến quyết thắng” của Hồ Chủ tịch giao cho quân đội lên đồn Pháp.
Trong trận đánh điểm cao 507, Trần Can đã dũng cảm dẫn đầu tiểu đội xông lên áp đảo quân Pháp, chiếm mỏm cột cờ. Lính Pháp bắn pháo dữ dội và cho quân địch chiếm lại. Ta với Pháp giành giật nhau từng thước đất hết sức quyết liệt. Anh đã cùng đồng đội kiên quyết giữ vững và tiến công đánh bại 4 đợt phản kích của địch. Dù đã bốn lần thất bại, địch vẫn tiếp tục kiên quyết mở các đợt công kích. Trong đợt công kích thứ năm, chúng tăng thêm quân số có pháo binh, xe tăng yểm trợ hòng chiếm lại các vị trí đã mất và ném lựu đạn tới tấp trước khi xung phong.
Trần Can chỉ huy đơn vị nhảy lên bờ hào đánh giáp lá cà. Trong đợt này, cán bộ đại đội bị thương vong hết, bản thân Trần Can cũng bị thương. Để tiếp tục cuộc chiến đấu, cấp trên đã chỉ định anh làm đại đội trưởng. Sáng hôm sau, anh tập trung thương binh nhẹ lại, động viên bộ đội, chấn chỉnh tổ chức, củng cố trận địa. Quân Pháp lại phản kích dữ dội, mong đánh bật quân ta, giành lại cửa ngõ tiến vào Mường Thanh. Trần Can chỉ huy đơn vị đánh tan đợt pháo kích của chúng, kiên quyết giữ vững trận địa, tạo thế cho đơn vị tiến vào trung tâm Mường Thanh.
Trần Can đã hy sinh anh dũng sáng ngày 7 tháng 5 năm 1954, ngày kết thúc chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ. Với những chiến công to lớn, Trần Can đã được tặng 1 Huân chương Quân công hạng ba, 2 Huân chương Chiến công hạng nhất, 2 lần được bầu là chiến sỹ thi đua của đại đoàn. Ngày 7 tháng 5 năm 1956, Trần Can được Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa truy tặng Huân chương Quân công hạng nhì và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang.
Bế Văn Đàn sinh năm 1931, là người dân tộc Tày, quê ở xã Quang Vinh (nay là xã Bế Văn Đàn, huyện Quảng Hòa, tỉnh Cao Bằng). Anh xuất thân trong một gia đình nghèo có truyền thống cách mạng. Mẹ mất sớm, còn cha ông làm thợ mỏ.
Lớn lên, anh tham gia hoạt động du kích ở địa phương. Tháng 1/1948, Bế Văn Đàn xung phong vào bộ đội giữa lúc cuộc chiến tranh Đông Dương đang quyết liệt. Tham gia nhiều chiến dịch, anh luôn nêu cao tinh thần dũng cảm, tích cực vượt qua mọi khó khăn ác liệt, kiên quyết chấp hành mọi chỉ thị mệnh lệnh nghiêm túc, chính xác, kịp thời, và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
Cuộc kháng chiến chống Pháp của Việt Minh đang ở giai đoạn quyết liệt, Đảng Cộng sản Đông Dương quyết định mở chiến dịch Đông Xuân năm 1953 - 1954. Đơn vị hành quân đi chiến dịch, Bế Văn Đàn làm liên lạc tiểu đoàn. Một đại đội của tiểu đoàn được giao nhiệm vụ bao vây giữ Pháp ở Mường Pồn. Lúc đó, khi thấy lực lượng Việt Minh ít, Pháp tập trung hai đại đội có phi pháo yểm trợ liên tiếp phản kích, nhưng cả hai lần chúng đều bị quân Việt Minh đánh bật. Cuộc chiến đấu diễn ra căng thẳng và quyết liệt. Quân Pháp liều chết xông lên, quân Việt Minh kiên quyết ngăn chặn, chốt giữ.
Lúc đó có lệnh cho đại đội quyết tâm giữ ở Mường Pồn bằng bất cứ giá nào, để các đơn vị khác triển khai lực lượng, thực hiện các chủ trương của chiến dịch. Mặc dù Bế Văn Đàn vừa đi công tác về nhưng khi thấy chỉ huy thông báo, anh đã xung phong lên đường làm nhiệm vụ. Bế Văn Đàn vượt qua lưới đạn dày đặc của quân Pháp, xuống truyền đạt mệnh lệnh cho đại đội kịp thời, chính xác. Trong khi đó, trận chiến đấu diễn ra ngày càng ác liệt hơn, Bế Văn Đàn được lệnh ở lại đại đội chiến đấu.
Quân Pháp phản kích lần thứ ba, mở đường tiến, đại đội Việt Minh bị thương vong nhiều, chỉ còn 17 người, bản thân Bế Văn Đàn cũng bị thương, nhưng anh vẫn tiếp tục chiến đấu. Một khẩu trung liên của đơn vị không bắn được vì xạ thủ hy sinh. Khẩu trung liên của Chu Văn Pù cũng chưa bắn được vì không có chỗ đặt súng.
Bế Văn Đàn lúc hy sinh là tiểu đội phó, Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Anh đã để lại tấm gương chiến đấu dũng cảm, chấp hành nghiêm mệnh lệnh của cấp trên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Do đó, trong đại hội mừng công của đơn vị, Bế Văn Đàn được truy tặng Huân chương chiến công hạng nhất và được bình bầu là chiến sĩ thi đua số một của tiểu đoàn. Với những thành tích đặc biệt xuất sắc, ngày 31/8/1955, Bế Văn Đàn được Quốc hội nước Việt Nam truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân và Huân chương quân công hạng Nhì.
Hình ảnh “Bế Văn Đàn lấy thân mình làm giá súng” trở thành một trong những tấm gương tiêu biểu trong Quân đội nhân dân Việt Nam thời kỳ Chiến tranh Đông Dương: "Từ chiến thắng Điện Biên lẫy lừng thế giới/ Anh bước vào trang sách các em thơ/ Bế Văn Đàn một tâm hồn vĩ đại/ Hai mươi tuổi đời sống mãi với quê hương anh hùng..." (Trích bài hát “Bế Văn Đàn sống mãi” - nhạc sĩ Huy Du)./.
Nội dung & Thiết kế: Tô Ngọc Oanh