Đình Dục Tú
Đình Dục Tú hiện ở thôn Dục Tú, xã Dục Tú, huyện Đông Anh, Hà Nội. Nằm trong mảnh đất là nơi sinh sống của người Việt cổ, Dục Tú đã được ca ngợi là “Dục chung anh - Tú hải hà” với nghĩa “Nuôi khí thiêng để làm đẹp sông biển”, là mảnh đất có bề dày lịch sử hàng thiên niên kỷ với truyền thống văn hoá đẹp đẽ của xứ Kinh Bắc.
Làng Dục Tú từ xa xưa đã có ngôi đền thờ Sĩ Nhiếp là tiền thân của ngôi đình hiện nay. Theo thần tích của làng cũng như sách Việt Điện U Linh thì Sĩ Nhiếp quê ở huyện Quảng Tín, quận Thương Ngô là người có đạo đức, hiếu hạnh, liêm chính. Vào thời vua Hán Hiến Đế đã làm Thái thú đất Giao Châu. Sử thần Ngô Sĩ Liên đã ghi lại trong bộ Đại Việt sử ký toàn thư: “Sĩ vương - ở ngôi 40 năm, thọ 90 tuổi. Vương là người khoan hậu, khiêm tốn, lòng người yêu quý, giữ cả đất Việt, chống với thế mạnh Tam quốc, đã sáng suốt lại mưu trí, có thể gọi là bậc vua hiền... Lúc ít tuổi sang du học Kinh đô nhà Hán, theo học Lưu Tử Ký ở Đình Xuyên, chuyên trị sách Tả thị Xuân thu, có làm lời chú giải - được cử hiếu liêm, bổ làm Thượng thư lang…. được cử mậu tài, bổ làm lệnh huyện Vu Dương, đổi làm Thái thú Giao Châu (sửa làm Giao Chỉ), phong là Long bộ đình hầu, đóng đô ở Liên Lâu (tức Long Biên). Sau được nhà Trần truy phong làm “Thiên cảm gia Ứng linh vũ đại vương”...
Hiện nay không còn dấu vết vật chất nào cho biết niên đại khởi dựng đình, trên câu đầu trong toà Đại đình có dòng chữ cho biết đã được trùng tu vào thời Nguyễn, còn theo các cụ trong làng kể lại lần trùng tu sớm hơn là vào giữa thế kỷ XVII.
Đình có quy mô kiến trúc rộng lớn với tổng thể kiến trúc gồm: giếng đình, sân, Tiền tế, Đại đình, Hậu cung và đền liền sát. Sản đình rộng lát gạch Bát Tràng cổ, Tiền tế là một toà nhà 5 gian 4 mái với kết cấu kiểu giá chiêng chồng rường con nhị. Đại đình không xây kín, 2 gian bên ở phía trước Đại đình được xây bịt ở phía dưới, trên là chấn song con tiện, Đại đình cũng có 4 mái với 4 góc đao cong hoà nhập vào kiến trúc tổng thể. Toà Hậu cung là 3 gian xây theo kiểu đầu hồi bít đốc với 4 hàng chân. Nhìn chung kiến trúc đình Dục Tú đẹp, thanh thoát và vẫn còn mang dấu vết của một ngôi đình truyền thống vùng đồng bằng Bắc Bộ.
Đình Dục Tú hiện vẫn còn lưu giữ được nhiều di vật quý trong đó tiêu biểu là 1 cuốn thần phả ghi sự tích của Sĩ Nhiếp cùng 18 đạo sắc phong trong đó có 7 sắc thời Lê, 2 sắc thời Quang Trung và 9 sắc phong thời Nguyễn.
Với bề dày lịch sử trên 300 năm, đình Dục Tú và chùa Tiên Cảnh đã tạo thành một cụm di tích, vượt qua không gian hẹp của làng xã để trở thành một trong những điểm di tích thu hút nhiều du khách đến thăm quan, thưởng ngoạn.
Đình Dục Tú mang trong mình giá trị nhiều mặt, trước tiên ở góc độ lịch sử đây là ngôi đình thờ Sĩ Nhiếp - người đã có vai trò thúc đẩy một bước mạnh mẽ phát triển của nho học ở Giao Châu. Trong quá trình làm Thái thú ông đã chăm lo, tạo dựng cuộc sống cho người dân nơi đây và được các sử gia đương thời của nước Việt đánh giá là một nhân vật tích cực.
Về góc độ kiến trúc nghệ thuật, đình Dục Tú là di tích có niên đại ra đời vào loại sớm ở nước ta. Đến xem nghệ thuật của di tích không chỉ dừng ở một chi tiết mà phải đặt nó trong tổng thể. Dấu vết vật chất của các thời kỳ lịch sử còn in đậm trên kiến trúc và các di vật của di tích. Từ quy mô bề thế đến các kết cấu, các mảng chạm khắc đẹp, sinh động, các mái cong hài hoà, uyển chuyển... trong di tích giúp chúng ta hiểu thêm về di tích này. Khối lượng di vật lớn, phong phú và đa dạng về loại hình, nhiều về chất lượng được ra đời trong các giai đoạn lịch sử khác nhau nên tự mỗi di vật đều có vẻ đẹp riêng. Tất cả là sự gửi gắm tâm linh với bàn tay đầy tài hoa của người nghệ nhân cổ. Đặc biệt là hệ thống sắc phong, văn bia của hai thời Lê, Nguyễn, ngoài giá trị nghệ thuật còn là nguồn sử liệu quý trong việc tìm hiểu đời sống xã hội của một làng cổ ven đô. Ngày nay, cụm di tích đình - chùa Dục Tú là niềm tự hào của người dân nơi đây đồng thời góp phần làm phong phú thêm kho tàng về văn hoá của vùng đồng bằng Bắc Bộ.
Cụm di tích đình - chùa Dục Tú được Bộ Văn hóa và Thông tin xếp hạng di tích lịch sử, kiến trúc, nghệ thuật năm 1995./.
Theo Hà Nội Danh thắng và Di tích tập 01