Danh thắng & Di tích Hà Nội

Đình, chùa, văn chỉ Nguyệt Áng (huyện Thanh Trì)

Sơn Dương (t/h) 17:54 29/04/2023

Đình, chùa, văn chỉ Nguyệt Áng thuộc làng Nguyệt Áng, xã Đại Áng, huyện Thanh Trì, Hà Nội.

Làng Nguyệt Áng hiện còn ngôi đình ở đầu làng, hướng tây nam. Theo các bô lão trong làng thì lúc đầu đình hướng bắc, quay về phía làng Vĩnh Trung. Vào thời Lê, niên hiệu Đức Long (1629 - 1634), đình được sửa lại, đến niên hiệu Vĩnh Thọ (1658 - 1661), sau khi đỗ tiến sĩ, Nguyễn Đình Trụ đã đứng ra vận động dân làng dựng lại đình, thay đình lợp tranh bằng đình lợp ngói, đổi hướng tây bắc, nhìn về làng Siêu Quần. Hướng đình cũng như quy mô kiến trúc hiện nay được bảo lưu từ sau lần sửa gần đây nhất vào tháng 4 năm Canh Tý niên hiệu Thành Thái (1900) mà người đứng ra hưng công là tiến sĩ Nguyễn Trọng Hợp - Thái tử Thái Bảo, Văn minh điện Đại học sĩ, người làng Kim Lũ (xã Đại Kim) là con rể tiến sĩ Lưu Quỹ. Tấm bia dựng vào dịp lập Thu năm Canh Tý (1900) hiện còn lưu ở đình cho biết điều đó. Đình có kiến trúc kiểu chữ “công”, gồm Tiền đường 5 gian nối với Hậu cung bằng toà Ống muống.

Đình làng Nguyệt Áng thờ vị thần duy nhất là Công Ba Đại Vương. Theo bản thần phả “Viết Kinh Dương Vương triều trị lược phụ lục” soạn ngày 16 tháng giêng năm thứ 35 đời vua Lý Cao Tông - 1210 (?), sao lại vào ngày 1 tháng ba năm Thành Thái thứ 13 (1901) hiện còn lưu ở đình, thì xưa kia làng Nguyệt Áng nằm trong Đại Đảm trang. Khi Lạc Long Quân và Âu Cơ chia tay nhau, mỗi người mang theo 50 người con, kẻ lên rừng, người xuống biển, người con cả theo Âu Cơ sau lên ngôi vua, gọi là Hùng Vương, em của Hùng Vương là Công Bà là người hào hoa phong nhã, thích ca hát, thông làu kinh sử, văn võ toàn tài, tinh thông thiên văn địa lý đã đi chu du khắp thiên hạ. Một lần ông đến trang Nguyệt Đảm, thấy đất ấy ở thế đắc địa, có gò cao trước mặt, long hổ chầu vào, phía trước có án tạc kim quy, phía sau có hai con hoàng xà phục đến, đúng là đất anh linh tú khí. Ông bèn triệu các bộ lão, cho 100 quan tiền để dựng ngôi đình theo hương Quý Đinh (hướng chính Bắc); lại thêm ruộng để làm hương hoả. Đến ngày 12 tháng hai năm Bính Ngọ (?), Công Ba về Nguyệt Áng thăm lại đình cùng vui với dân làng. Tiệc đang vui thì Công Ba hoá. Dân làng tồn ông làm Thành hoàng, hàng năm đều có tế lễ vào các ngày 12 tháng hai, 12 tháng năm. Các triều vua đều phong ông là “Công Ba đại vương”. Hiện trong đình còn lưu 15 đạo sắc, đạo sớm nhất vào ngày 24 tháng sáu năm Chính Hoà thứ 4 (1683), đạo muộn nhất vào ngày 25 tháng bảy năm Khải Định thứ chín (1924), có một đạo niên hiệu Bảo Hưng thứ 2 (1802).

Làng Nguyệt Áng trước đây có hai ngôi chùa. Chùa Kim Hoa đã bị phá trong chiến tranh, nay chỉ còn chùa Thanh Bảo. Quy mô và kiến trúc chùa hiện nay được bảo lưu theo lần sửa chữa vào năm Nhâm Thân đời Bảo Đại (1932). Hiện còn tấm bia đề ngày tốt, tháng giêng năm Bảo Đại thứ 7 (1932), nội dung nói về bà Lưu Thị Tín lấy chồng là Nghị Sỹ, Tiên chỉ Cử nhân Lưu Thành, con trai là Tham biện Lưu Chung, Lục sự Lưu Đạm góp tiền của để dân làng tu bổ chùa.

Văn chỉ Nguyệt Áng do trạng nguyên Nguyễn Quốc Trinh cùng em là tiến sĩ Nguyễn Đình Trụ và hội Tư văn làng Nguyệt Áng dựng để thờ Khổng Tử và các bậc khoa bảng của làng. Hiện còn 2 tấm bia trụ khổ. Bia thứ nhất đề ngày 13 tháng sáu năm Cảnh Trị thứ 5 (1667) - cũng là năm khánh thành văn chỉ, ghi tên tuổi, khoa thi, chức quan, hành trạng của trạng nguyên Nguyễn Quốc Trinh, các tiến sĩ Nguyễn Đình Trụ, Nguyễn Danh Thọ, Nguyễn Đình Bách, Nguyễn Đình Úc, Nguyễn Xuân Thọ. Bia thứ hai đề ngày 4 tháng hai năm Bính Tý đời Tự Đức (1876) ghi danh 5 tiến sĩ còn lại cùng 29 hương cống, cử nhân và 11 sinh đồ, tú tài của làng. Tấm bia niên hiệu Cảnh Trị thứ 5 (1667) có bài minh ca ngợi truyền thống khoa bảng của dòng họ Nguyễn và của làng.
Lược dịch:

Núi nổi tiếng xứ Nam
Đất đẹp làng Nguyệt Áng
Mở đầu đường làm quan
Khoa nho học kế tiếp Em đỗ tiến sĩ vinh
Anh giành trạng nguyên quý
Với tài ba giường cột
Xây miếu đường nguy nga
Dựng từ vũ cao đẹp
Khoa bảng đỗ đạt nhiều
Chức tướng bậc trọng cao
Công hầu trải ban khắp
Tuổi già sáng suốt nghĩ
Khắc sâu nơi bia đá
Để mãi vạn đời sau.

Đền thờ Trạng nguyên Nguyễn Quốc Trinh (Trạng nguyên từ): nằm trên một khu đất riêng của ông ở làng Nguyệt Áng, dân làng gọi là Thung Cụ Trạng. Đền được trùng tu xong ngày 26 tháng chín năm Bảo Đại thứ 4 (Kỷ Tỵ - 1929) gồm 3 gian nhà nhỏ.

Đình, chùa, văn chỉ Nguyệt Áng đã được Bộ Văn hoá và Thông tin xếp hạng di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật năm 1995./.

Theo Hà Nội Danh thắng và Di tích tập 01

Bài liên quan
(0) Bình luận
  • Ô Quan Chưởng - Cửa ô cuối cùng của Hà Nội
    Cửa Ô Quan Chưởng nằm ở phía Đông thành Thăng Long xưa, hiện nay thuộc phường Đồng Xuân, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Đây là một trong những cửa ô quan trọng của thành Thăng Long còn sót lại cho đến ngày nay. Chứng kiến biết bao biến đổi thăng trầm của Thủ đô, giữa phố phường Hà Nội nhộn nhịp hôm nay, Ô Quan Chưởng vẫn sừng sững uy nghiêm, khoác lên mình vẻ đẹp cổ kính, bình yên...
  • Bảo tàng Mỹ thuật ở giữa làng quê (huyện Ba Vì)
    Xứ Đoài là một vùng đất tối cổ - vùng địa văn hoá, địa thi hoạ - nơi mà con người có thể trải nghiệm đời mình trong hệ sinh thái tự nhiên của vùng đất, đi qua những truyền thuyết, cổ tích, để từ đó tạo nên tâm tính, giọng nói đặc trưng của con người xứ Đoài. Nắng và gió, núi và sông xứ Đoài đã gợi cảm hứng sáng tác cho một Tản Đà, một Quang Dũng và nhiều thi nhân, hoạ sĩ: từ Tô Ngọc Vân, Nguyễn Gia Trí đến Sĩ Tốt, Nguyễn Tiến Chung, Nguyễn Tư Nghiêm, Nguyễn Sáng... và những thế hệ văn nghệ sĩ sau này, ở họ đều có những sáng tác xuất sắc về xứ Đoài.
  • Bảo tàng Chiến sĩ cách mạng bị địch bắt tù đày (huyện Phú Xuyên)
    Đi khắp các vùng miền của Tổ quốc, những cựu tù binh Phú Quốc đã sưu tầm kỷ vật, di vật, tranh ảnh có liên quan đến các nhà tù trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược mà đồng đội và các ông đã trải qua. Hơn 20 năm kiếm tìm và góp nhặt, Bảo tàng Chiến sĩ cách mạng bị địch bắt tù đày, do chính những người cựu tù năm xưa thành lập là những minh chứng chân thực về một thời oanh liệt và hào hùng của dân tộc.
  • Bảo tàng Quê hương phong trào chiếc gậy Trường Sơn (huyệnỨng Hoà)
    Hoà Xá là một làng quê nằm sát bờ tả sông Đáy, thuộc vùng ven chiêm trũng Khu Cháy. Nơi đây sớm có phong trào cách mạng ngay từ những năm 1930, là hậu phương trung thành của cuộc kháng chiến chống Pháp. Trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Hòa Xá được xem là quê hương của phong trào động viên thanh niên lên đường “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” và câu chuyện huyền thoại “chiếc gậy Trường Sơn”.
  • Khu Cháy, Bảo tàng Khu Cháy - một địa chỉ đỏ về truyền thống đấu tranh cách mạng ở Ứng Hoà, Phú Xuyên
    “Khu Cháy” là thuật ngữ để nói về một khu du kích trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp gồm 22 xã ở phía nam huyện Ứng Hoà và tây huyện Phú Xuyên, Hà Nội.
  • Bảo tàng Tổng cục II (quận Hoàng Mai)
    Toạ lạc tại số 322 đường Lê Trọng Tấn, quận Hoàng Mai, Hà Nội trên khuôn viên rộng 3.500m2, gồm 2 tầng nhà và phần trưng bày ngoài trời, Bảo tàng Tổng cục II hiện lưu giữ 5.830 hiện vật, trong đó có nhiều hiện vật quý hiếm gắn liền với cuộc đời hoạt động của nhiều chiến sĩ tình báo xuất sắc của Quân đội nhân dân Việt Nam. Với chức năng phục vụ công tác nghiên cứu, tham quan học tập, giáo dục truyền thống, Bảo tàng Tổng cục II chính thức được Bộ Văn hoá - Thông tin công nhận nằm trong hệ thống các bảo tàng cấp 2 toàn quân.
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
  • [Podcast] Thu Hà Nội – Mùa của tình yêu và nỗi nhớ
    Bốn mùa, xuân, hạ, thu, đông của Hà Nội, mỗi mùa đều mang trong mình nét đẹp riêng bới hương, bởi sắc của mỗi mùa. Nhưng có lẽ, mùa thu vẫn là một mùa thật đặc biệt của Người Hà Nội. Mỗi độ thu về như gói gọn cả một Hà Nội cổ kính, trầm mặc, một Hà Nội thơ mộng và trữ tình. Chính bởi vẻ đẹp đó mà mùa thu đã trở thành nỗi nhớ cho những ai đã từng gắn bó với Hà Nội mà nay phải chia xa, là niềm ước ao một lần được “chạm vào” của nhiều du khách.
  • Khám phá Tây Bắc tại triển lãm "Tây Park - Ngàn"
    Triển lãm thị giác "Tây Park - Ngàn" được thực hiện dựa trên quá trình 10 năm đi và trải nghiệm tại Tây Bắc (Việt Nam) kết hợp sáng tạo nhiếp ảnh của Nguyễn Thanh Tuấn.
  • Khúc ca tình mẫu tử khi đối thoại với thời gian
    Bài thơ “Mẹ” của Đỗ Trung Lai thuộc đề tài quen thuộc nhưng luôn mang sức gợi lớn: đề tài người mẹ. Bài thơ được chọn vào sách giáo khoa Ngữ văn 7 (tập 1, bộ Cánh diều). Xuyên suốt bài thơ là bóng dáng vất vả, tảo tần của người mẹ gắn liền với tình cảm thiêng liêng, sâu đậm mà người con dành cho mẹ. Bằng nét bút tinh tế và nghệ thuật biểu đạt đầy sáng tạo, bài thơ tựa như một khúc ru trầm, nhẹ nhàng mà da diết, chạm đến từng góc khuất trong tâm hồn người đọc.
  • Quận Thanh Xuân: Kiên quyết nói “Không” giao xe cho học sinh chưa đủ điều kiện tham gia giao thông
    Phó Chủ tịch UBND quận Thanh Xuân (TP. Hà Nội) Lê Hồng Thắng vừa cho biết, UBND quận mới đây đã ban hành Kế hoạch thực hiện quy định của pháp luật về “Không giao xe cho người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện tham gia giao thông” trên địa bàn quận.
  • Khởi tranh Giải bóng đá các cơ quan báo chí toàn quốc Press Cup 2024
    Ngày 21/11, tại Tòa nhà Hội Nhà báo Việt Nam (Hà Nội) đã diễn ra buổi Họp báo và Công bố Vòng chung kết Giải bóng đá các cơ quan báo chí toàn quốc Press Cup lần thứ 8 năm 2024.
Đừng bỏ lỡ
Đình, chùa, văn chỉ Nguyệt Áng (huyện Thanh Trì)
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO