Ngô Quyền – vị tổ trung hưng thứ nhất
Từ Ái Châu (Thanh Hóa), Dương Đình Nghệ - một hào trưởng địa phương và là một thuộc tướng của Khúc Thừa Hạo tập hợp lực lượng mở cuộc tiến công chiếm lại thành Đại La. Những hào kiệt cùng chí hướng như Ngô Quyền ở Phong Châu (Sơn Tây), Đinh Công Trứ ở Trường Châu (Ninh Bình) đều đem gia thuộc vào Ái châu theo Dương Đình Nghệ mưu việc đại nghĩa. Vua Nam Hán trao cho Dương Đình Nghệ “tước mệnh coi giữ Ái Châu”. Ông nhận chức đó để chờ thời cơ. Thế rồi, vào một ngày tháng 3 năm 931, Dương Đình Nghệ cấp tốc đem quân từ Ái Châu tiến ra, đánh úp Giao Châu, chiếm thành Đại La. Thứ sử Giao Châu Lý Tiến bỏ thành chạy trốn về nước, rồi bị nhà Nam Hán giết chết...
Dương Đình Nghệ lên cầm quyền, vẫn tự xưng là Tiết độ sứ, đóng tại thành Đại La. Ông phong cho Đinh Công Trứ (cha Đinh Bộ Lĩnh) chức Thứ sử Hoan Châu, gả con gái là Dương Thị Như Ngọc cho Ngô Quyền và giao coi giữ Ái Châu. Chính quyền họ Dương tồn tại bảy năm, từ năm 931 đến tháng 3 năm Đinh Dậu 937 thì Dương Đình Nghệ bị kẻ phản bội là Kiều Công Tiễn (một viên tướng dưới quyền) sát hại để cướp đoạt chức Tiết độ sứ.
Trước hành động phản trắc của Kiều Công Tiễn, nhân dân Đại La và cả nước rất bất bình, căm giận. Lúc này, Kiều Công Tiễn đê hèn đã sai sứ đem của cải sang đút lót vua Nam Hán xin cứu viện, tự chuốc thêm tội phản bội dân tộc. Lợi dụng cơ hội đó, vua Nam Hán sai con là Lưu Hoằng Thao thống lĩnh hơn hai vạn tinh binh cùng mấy trăm thuyền chiến hùng hổ theo sông Bạch Đằng kéo vào xâm lược nước ta lần thứ hai. Vận mệnh dân tộc lại một lần nữa đứng trước thử thách lớn. Trong bối cảnh ấy, người anh hùng dân tộc Ngô Quyền bước lên vũ đài lịch sử.
Ngô Quyền sinh năm Mậu Ngọ (898) ở xứ Đường Lâm (nay là xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây, thuộc Hà Nội), cùng quê với người anh hùng Bố Cái Đại vương Phùng Hưng, Cha ông là Ngô Mân đã từng làm chức Châu mục Đường Lâm. Từ nhỏ, Ngô Quyền đã lớn lên trong truyền thống yêu nước của quê hương. Đại Việt sử ký toàn thư mô tả: "Ngô Quyền có dung mạo khác thường, lưng có ba nốt ruồi. Các thầy tướng cho là lạ, rằng có thể làm chủ cả một phương, nhân đó (Ngô Mân) mới đặt cho con tên là Quyền. Khi Ngô Quyền lớn lên, tướng mạo khôi ngô, mắt sáng như chớp, dáng đi thong thả như hổ, trí dũng hơn người, sức có thể nâng được vạc...”.
Lúc trưởng thành, Ngô Quyền võ nghệ tinh thông và có chí lớn. Ông đã từng tham gia xây dựng chính quyền họ Khúc ở Đại La, đã từng theo Dương Đình Nghệ đánh đuổi quân Nam Hán, giải phóng thành Đại La năm 931... Là người có tài đức và ý chí, ngay sau khi chủ tướng Dương Đình Nghệ bị sát hại, Ngô Quyền sớm trở thành linh hồn của ngọn cờ yêu nước.
Vào những ngày mùa đông năm Mậu Tuất (938), Ngô Quyền từ Ái Châu đem quân ra hỏi tội Kiều Công Tiễn. Theo thần tích, truyền thuyết dân gian và gia đình họ Dương ở làng Ràng (xã Dương Xá, huyện Thiệu Yên, tỉnh Thanh Hóa) theo sự chỉ huy của Ngô Quyền, Dương Tam Kha (con Dương Đình Nghệ) và Đỗ Cảnh Thạc đã trực tiếp chỉ huy cuộc tiến công thành Đại La, giết Kiều Công Tiễn.
Dẹp xong nội loạn, Ngô Quyền vào thành họp bàn với các tướng lĩnh về kế hoạch chống ngoại xâm. Thành Đại La trở thành trung tâm đầu não của cuộc kháng chiến chống quân Nam Hán lần thứ hai. Hào kiệt bốn phương đem quân hội tụ về Đại La dưới cờ đại nghĩa của người anh hùng dân tộc Ngô Quyền. Tại đây, một kế hoạch chiến đấu mưu trí và chắc thắng đã được Ngô Quyền và các tướng lĩnh bàn định và thông qua. Trong một cuộc họp bàn, với lòng tự tin và làm chủ tình thế, Ngô Quyền đề ra ý kiến như sau: “Hoằng Thao là một đứa trẻ, lại đem quân từ xa đến, quân lính mệt mỏi, lại nghe tin Kiều Công Tiễn đã chết, không có người làm nội ứng đã mất vía trước rồi. Quân ta sức còn mạnh, địch với quân mỏi mệt tất phá được. Song giặc có lợi về thuyền chiến, nếu ta không phòng bị trước thì chuyện được thua chưa thể biết được. Nhưng ta sẽ cho người đem theo cọc lớn đóng ngầm ở cửa biển trước, vạt đầu nhọn bịt sắt, thuyền của chúng nhân khi nước thủy triều lên tiến vào bên trong hàng cọc, bây giờ ta sẽ dễ bề chế ngự. Không kế gì hay hơn kế ấy cả” (Đại Việt sử ký toàn thư, Tập I. Bản dịch, 1993).
Kế hoạch và việc lựa chọn chiến trường cho trận “quyết chiến chiến lược” đã được quyết định. Tướng sĩ ai cũng vui mừng, tin rằng chắc thắng. Sau đó, Ngô Quyền và bộ chỉ huy tạm rời thành Đại La, kéo quân về vùng ven biển đông bắc chuẩn bị chiến trường đón đánh thủy quân Nam Hán. Theo thần tích và truyền thuyết dân gian các làng và hơn 30 đền thờ Ngô Quyền và các tướng có công phá giặc Nam Hán đã được phát hiện, thì vùng đóng quân của Ngô Quyền lúc bấy giờ được trải dài từ các làng Bình Kiều, Hạ Đoan tới Lương Khê, còn đại bản doanh thì đặt tại các thôn Lương Sâm, Gia Viên (đều thuộc huyện An Hải, Hải Phòng).
Trước đây, đại bộ phận quân đội của Ngô Quyền là người Ái Châu, nơi ông trấn trị. Trước nạn Nam Hán xâm lược, đạo quân này được bổ sung và tăng cường nhanh chóng. Nhân dân khắp nơi mang vũ khí, thuyền chiến tham gia và ủng hộ nghĩa quân. Chỉ riêng một thôn Gia Viên - nơi Ngô Quyền đặt đại bản doanh - cũng đã có hàng mấy chục trai tráng dưới quyền chỉ huy của Đào Nhuận và Nguyễn Tất Tố tình nguyện nhập ngũ.
Vùng cửa sông và hạ lưu sông Bạch Đằng được Ngô Quyền chọn làm điểm quyết chiến.
Sông Bạch Đằng là cửa ngõ phía đông bắc và là đường giao thông quan trọng từ biển Đông vào đất nước ta. Theo cửa Nam Triệu vào Bạch Đằng, địch có thể ngược mãi lên và tiến đến thành Cổ Loa hoặc thành Đại La hoàn toàn bằng đường sông. Sông Bạch Đằng chảy qua một vùng núi non hiểm trở, có nhiều nhánh sông phụ đổ vào. Hạ lưu sông thấp, chịu ảnh hưởng của nước triều khá mạnh. Triều lên từ nửa đêm về sáng, cửa biển rộng mênh mông, nước trải rộng ra hai bên bờ đến hơn 2km. Đến gần trưa thì triều rút mạnh, chảy rất nhanh...
Bây giờ vào cuối năm 938, Trời rét, gió đông bắc tràn về, mưa dầm lê thê kéo dài hàng nửa tháng. Chính trong những ngày ấy, theo kế hoạch của Ngô Quyền, quân và dân ta đã lặn lội mưa rét, ngày đêm vận chuyển gỗ, dung cụ. Hàng nghìn cây gỗ lim, sến, đầu được vạt nhọn và bịt sắt được đem về đây cắm xuống hai bên bờ sông (quãng của Nam Triệu hiện nay) thành những hàng dài chắc chắn, đầu cọc hướng chếch về phía nguồn. Khi triều rút, các hàng cọc mới phơi ra, còn lúc sáng sớm nước mênh mông, thì thuyền lớn qua lại ven hai bờ vẫn dễ dàng. Trận địa cọc được tiến hành rất gấp rút và chỉ trong khoảng thời gian hơn một tháng là mọi việc đã hoàn thành.
Theo dự kiến của Ngô Quyền, trận đánh sẽ diễn ra ở phía trong bãi cọc, Tướng Dương Tam Kha (con của Dương Đình Nghệ) chỉ huy đạo quân bộ bên tả ngạn, Ngô Xương Ngập (con trai cả của Ngô Quyền) và Đồ Cảnh Thạc chỉ huy đạo quân bộ bên hữu ngạn, mai phục sẵn, phối hợp với thủy quân đánh tạt sườn đội hình quân địch và sẵn sàng diệt số quân địch chạy lên bờ. Từ cửa biển ngược lên phía trên không xa là một đạo thủy quân mạnh phục sẵn do chính Ngô Quyền chỉ huy chặn ngay đường tiến lên của địch, chờ khi nước xuống sẽ xuôi dòng đánh quật lại đội binh thuyền địch.
Trận địa bố trí vừa xong thì binh thuyền Nam Hán từ Quảng Đông kéo sang. Cuộc chiến đấu đã diễn ra như sự trù liệu và dự tính của Ngô Quyền đã vạch ra. Cả đoàn binh thuyền lớn của Hoằng Thao vừa vượt biển vào cửa sông Bạch Đằng đã bị dồn dắt vào thế trận bố trí sẵn của ta, và bị tiêu diệt trong vòng một thời gian ngắn. Toàn bộ chiến thuyền của địch bị nhấn chìm xuống biển, hầu hết quân địch bị tiêu diệt, chủ soái Lưu Hoằng Thao bị giết tại trận. Chiến thắng Bạch Đằng diễn ra nhanh chóng khiến vua Nam Hán là Lưu Cung đang đóng quân ở sát biên giới mà không kịp tiếp ứng cho con. Sử chép: “Vua Hán thương khóc, thu nhặt quân còn sót mà rút lui” (Đại Việt sử ký toàn thư, Tập I. Bản dịch, 1993)...
Chiến thắng Bạch Đằng thời Ngô Quyền là một bước phát triển rực rỡ của nghệ thuật quân sự Việt Nam. Trong điều kiện lực lượng ta địch chênh lệch không nhiều, Ngô Quyền đã lợi dụng được cả thời tiết, địa hình có lợi cho ta, tạo nên thế mạnh giáng cho quân xâm lược vừa mới thò mặt tới một đòn trời giáng, giành thắng lợi quyết định bằng một trận mai phục thủy chiến trên sông.
Ca ngợi người anh hùng dân tộc Ngô Quyền, sử gia Lê Văn Hưu viết “Tiền Ngô Vương có thể lấy quân mới hợp của đất Việt ta mà phá được trăm vạn quân của Lưu Hoằng Thao, mở nước xưng vương, làm cho người phương Bắc không dám lại sang nữa. Có thể nói một cơn giận mà yên dân được, mưu giỏi mà đánh cũng giỏi vậy” (Đại Việt sử ký toàn thư. Tập 1 Bản dịch, 1993).
Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 là trận chung kết toàn thắng của dân tộc ta trên con đường đấu tranh chống Bắc thuộc, giành lại độc lập hoàn toàn. Chiến công hiển hách đó đập tan mưu đồ xâm lược của Nam Hán. tạo cơ sở để Ngô Quyền phát triển chính quyền tự chủ của họ Khúc, họ Dương thành chính quyền độc lập, chấm dứt hoàn toàn thời Bắc thuộc kéo dài trên nghìn năm.
Bằng chiến thắng vang dội trên sông Bạch Đằng, dân tộc ta không những chấm dứt ách đô hộ hơn nghìn năm của phương Bắc, mà còn tạo điều kiện tiến lên xây dựng một quốc gia độc lập hoàn toàn.
Mùa xuân năm Kỷ Hợi (939), Ngô Quyền quyết định bỏ chức Tiết độ sứ, tự xưng vương, thành lập một vương quốc độc lập đàng hoàng. Thành Cổ Loa (Đông Anh, Hà Nội) vốn là kinh đô cũ của nước Âu Lạc cổ đại hơn một nghìn năm về trước, lại được chọn làm kinh đô của vương quốc độc lập thế kỷ thứ X. Vào thời kỳ nước Âu Lạc, thành Cổ Loa là một trung tâm chính trị, quân sự và văn hóa của cả nước. Trong hơn một nghìn năm Bắc thuộc, thủ đô xưa của Âu Lạc bị biến thành một trung tâm hành chính của huyện Tây Vu, rồi huyện Phong Khê. Chọn Cổ Loa làm kinh đô của nước Việt, Ngô Vương Quyền tỏ ý nối tiếp truyền thống của các vua Hùng, vua Thục. Sử gia Lê Văn Hưu đời Trần nêu cao ý tưởng này của Ngô Vương Quyền khi viết: với Ngô Vương “chính thống của nước Việt ta đã nối lại được” (Đại Việt sử ký toàn thư, Tập I. Bản dịch, 1993).
Tại kinh đô Cổ Loa, Ngô Vương bước đầu tổ chức một triều chính độc lập: “Đặt trăm quan, chế định triều nghi phẩm phục, có thể thấy được quy mô của đế vương” (Thiên Nam ngữ lục, Tập I. Bản dịch, 1958)... Bà vợ họ Dương, con gái Dương Đình Nghệ, được lập làm hoàng hậu. Triều đình của Ngô Vương tuy còn đơn sơ, nhưng được xây dựng theo thể chế của một vương triều hoàn toàn độc lập. Các tướng sĩ có công trong cuộc chiến tranh chống Nam Hán đều được phong tước, cấp thái ấp như Phạm Lệnh Công được phong đất ở miền Nam Sách Giang (Nam Sách, Hải Dương).
Thiên Nam ngữ lục, tác phẩm sử ca nôm cổ của ta ca ngợi chính quyền của Ngô Vương ở Cổ Loa như sau:
Quy mô chính trị sửa sang,
Xe mã một mối, bản chương mười phần.
Mười lăm bộ lạc sứ quân,
Loa thành đình đinh, Nam dân khỏe dần...
Ngô Vương đóng đô ở Cổ Loa được 6 năm (939-944). Trong sáu năm ngắn ngủi đó chắc chắn triều Ngô vẫn chưa xây dựng được thêm gì nhiều ở Loa thành xưa. Khảo cổ học chỉ phát hiện được những đoạn thành sửa đắp vào thời Ngô Quyền trên nền tảng hoang phế thành cũ của Thục An Dương Vương. Truyền thuyết dân gian vùng đất cổ Loa kể lại rằng, Ngô Vương Quyền khi đóng đô ở đây đã cho trồng cây đa ở trước am thờ My Châu và cho đào cái giếng nước ở trước cửa đền. Người dân vùng này còn truyền tụng những câu: “Cây đa nghìn tuổi”, “Giếng nước nhà Ngô”.
Ở thôn Hậu, xã Dục Tú, trong nhà thờ họ Đỗ còn giữ lại đôi câu đối:
Diễm phải vân nhưng gia hữu khánh,
Am thư bồ liễu bộ tinh quang.
Câu đối này ghi nhận một truyền thuyết vùng này kể về cô gái họ Đỗ cắt cỏ ở ven thành ngoại Cổ Loa đã được Ngô Quyền tuyển chọn làm thiếp. Về sau, Đỗ thị không có con, vua cho về nhà. Để đền đáp ơn nghĩa của cha mẹ nàng và dân làng, nhà vua ban cho Dục Tú những khoảng ruộng ở sát chân thành Cổ Loa. Vì thế trong dân gian vẫn còn giữ được bia đá và lời nguyền: “Thành Cổ Loa, cây đa của Dục Tú. Dục Tú bất đắc trảm phạt, Cổ Loa bất đắc vọng tranh”.
Với việc Ngô Vương đóng đô ở Cổ Loa, vùng đất Hà Nội lại khôi phục vị trí trung tâm chính trị của đất nước trong buổi đầu phục hưng độc lập sau hơn nghìn năm Bắc thuộc.
Ngô Quyền mất năm 944, thọ 47 tuổi. Người anh hùng dân tộc Ngô Quyền xứng đáng với sự tôn vinh chính xác của cả học sĩ thế kỷ XVIII - Ngô Thì Sĩ, lẫn chí sĩ đầu thế kỷ XX - Phan Bội Châu là “Tổ trung hưng thứ nhất” của lịch sử và dân tộc Việt Nam, và đúng cả với lời phẩm bình - được đặt trong phần đầu viết về “Kỷ nhà Ngô” trong bộ Đại Việt sử ký toàn thư của sử thần Ngô Sĩ Liên hồi thế kỷ XV: “Vua mưu tài, đánh giỏi, làm nên công tái tạo, đứng đầu các vua”.
Tại quê hương xã Đường Lâm (thị xã Sơn Tây, Hà Nội) có đình thờ và lăng Ngô Quyền. Trong nhà truyền thống xã Đường Lâm còn lưu giữ nhiều hiện vật quý như rìu đá, di chỉ đồ đá mới, cọc gỗ Bạch Đằng..; gần đó còn có những rộc sâu, tương truyền xưa kia là hồ sen, nơi Ngô Quyền thường cùng bạn bè thuở nhỏ chơi trò thủy chiến. Tại thành phố Hải Phòng, bên cạnh dòng sông Bạch Đằng lịch sử, cũng có những ngôi đền và đình thờ Ngô Quyền. Ở đình Hàng Kênh - ngôi đình tráng lệ ở Hải Phòng (xây dựng năm 1718) - có câu đối lớn với dòng chữ Hán:
- Vương nghiệp khởi Loa Thành, trường biên thanh sử
(Vương nghiệp bắt đầu từ Loa thành lưu mãi trong sử sách) - Chiến công lưu Đằng thủy, cộng mộc hồng ân
(Chiến công lưu lại trên sông Đằng, trong đó có ân phúc của loài cây).
Theo Doanh nhân Thăng Long - Hà Nội