Nguyên nơi đây vốn là khu vực của cửa Tây của thành Hà Nội cổ. Đầu thời Pháp thuộc, thực dân phá thành, làm một vườn hoa nhỏ ở nơi đây gọi là điểm tròn Puginier. Năm 1945 mới có tên là vườn hoa Ba Đình. Chữ Ba Đình là để gợi nhớ dải đất Ba Đình ở tỉnh Thanh Hoá, nơi đã nổ ra cuộc khởi nghĩa chống Pháp kéo dài từ tháng 9/1886 đến tháng 1/1887.
Ngày 2/9/1945, nửa triệu đồng bào Hà Nội và phụ cận đã cuồn cuộn đổ về quảng trường này để dự lễ Độc lập. Lễ đài dựng giữa quảng trường, bốn mặt hình thang phủ vải đỏ, ở giữa có hình nổi ngôi sao vàng năm cánh.
Đúng 14 giờ, các vị trong Chính phủ lâm thời đã có mặt trên lễ đài. Sau lễ chào cờ, Bác Hồ đọc Tuyên ngôn độc lập. Nửa triệu người hân hoan, xúc động im phăng phắc lắng nghe tiếng nói của lãnh tụ. Bác đọc xong, Chính phủ lâm thời tuyên thệ. Sau đó Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp trình bày tình hình trong nước và chính sách của Chính phủ. Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền Trần Huy Liệu báo cáo công việc tước ấn kiếm tại Huế, trình với đồng bào quả ấn và thanh kiếm tượng trưng cho uy quyền của triều Nguyễn mà Bảo Đại đã nộp cho Cách mạng. Đại diện Tổng bộ Việt Minh Nguyễn Lương Bằng nói về cuộc đấu tranh của nhân dân và kêu gọi đoàn kết, đẩy mạnh quá trình Cách mạng. Sau cùng mít tinh biến thành biểu tình tuần hành trên các đường phố.
Ngày 9/9/1969, bảy ngày sau khi Hồ Chủ tịch qua đời, cũng tại quảng trường này, lễ truy điệu của Người đã được cử hành trọng thể. Mười vạn đồng bào Thủ đô và các địa phương cùng 34 đoàn đại biểu quốc tế đã tới đây dự lễ.
Nay, mặt chính của quảng trường - mặt Tây là Lăng Hồ Chủ tịch. Trước lăng là Quảng trường với 320m chiều dài và 100m chiều rộng, đủ chỗ cho 20 vạn người dự mít tinh. Quảng trường thực ra là 168 ô cỏ bốn mùa xanh tươi; ở giữa quảng trường là cột cờ cao 30m.
Quảng trường Ba Đình đã trở thành không gian thiêng liêng của thủ đô Hà Nội.
Theo Hà Nội Danh thắng và Di tích tập 01