Đình Kim Hoàng

Phương Anh| 18/01/2023 17:09

Đình Kim Hoàng, gọi theo tên làng có niên hiệu Chính Hoà thứ 22 (1701), là “nhịp cầu nối”, một sự chuyển tiếp nghệ thuật điêu khắc cuối thế kỷ XVII sang đầu thế kỷ XVII.

Đình Kim Hoàng thờ thần sông và thần đất, về sau được lịch sử hoá thành tướng tài thời Hùng Vương, song vẫn gợi nguồn gốc Bạch Hạc Tam Giang. Đây là một trong những hình thái tín ngưỡng nguyên thuỷ của cư dân nông nghiệp lúa nước.

Đình được xây dựng tại xóm Đình, quay hướng tây trên một khu đất cao ráo, phía trước là hồ nước. Mới đầu, đình chỉ có một toà Đại đình, kiến trúc chữ “nhất”, đến năm 1847, dưới triều vua Tự Đức mới xây thêm phần Hậu cung để tạo thành chữ “đinh”. Đến đời vua Thành Thái (1889 - 1907) lại xây thêm dãy Tả, Hữu mạc và đến năm 2003 thì bổ sung thêm Nghi môn, ban thờ thần nông.

Tả, hữu mạc nằm song song với nhau, quay mặt vào khoảng sân rộng trước Đại bái, các bộ vì được làm khá đơn giản theo kiểu “chồng rường”, được bào trơn đóng bén, không chạm khắc trang trí.

Đại bái dựng trên một nền đất cao với ba bậc, cao hơn mặt sân khoảng 0,45m, có chiều dài 21,83m, rộng 11,47m. Các bộ vì được làm theo 2 kiểu thức khác nhau, 4 bộ vì giữa làm theo kiểu “giá chiêng” kết hợp với “chồng rường” với 2 trụ trốn đặt trên câu đầu. Các đầu dư chạm khắc rất tỉ mỉ hình đầu rồng ngậm ngọc mang phong cách cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII. Phần “giá chiêng” có lòng hẹp để trống và không còn bưng lá đề như thời trước. Trên các con rường của vì nóc được chạm khắc hình vân xoắn, đạo mác... Hai bộ vì nách được làm theo kiểu “cốn chồng rường”, giữa các con rường lúa những ván nong mỏng tạo thành mảng cốn kín, tạo diện không gian trang trí.

Toà Đại bái có 4 mái, hai mái chính rộng, hai mái bên hẹp hơn, toàn bộ mái đình được lợp bằng ngói mũi hài. Bờ nóc và bờ dải đắp bờ định, trên đầu bờ nóc là hai con kìm, ở khúc gấp đặt các con xô mang phong cách thế kỷ XVIII.

Hậu cung được chia là 3 gian, các bộ vì được làm theo kiểu “giá chiêng chồng rường” trên 4 hàng chân cột. Hầu hết các bộ vì này được bào trơn đóng bén, ít được trang trí. Xung quanh Hậu cung được xây tường trát vữa, dọc hai bên tường có lối thống với sân sau Đại bái, mái được lợp bằng ngói ri loại nhỏ, bên dưới lót bằng một lớp ngói chiếu hình chữ nhật.

Hiện trong đình còn lưu giữ nhiều di vật quý hiếm như long ngai, bài vị mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XVIII, bộ chấp kích có niên đại thế kỷ XVIII, chuông đúc năm Thiệu Trị thứ nhất (1841), 12 đạo sắc phong thời Nguyễn, 1 cuốn thần phả, hoành phi, câu đối.

Đình Kim Hoàng đã được Bộ Văn hoá và Thông tin xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật năm 1990.

Theo Hà Nội Danh thắng và Di tích tập 01

Bài liên quan
  • Đình Khương Trung
    Đình Khương Trung thuộc thôn Khương Trung, phường Khương Trung, quận Thanh Xuân, Hà Nội. Khương Trung xưa là một làng cổ ngoại thành Hà Nội, của vùng đất Tam Khương (ba làng Gừng) gồm Khương Trung, Khương Thượng, Khương Hạ thuộc tổng Khương Đình. Từ thời Lý, đất này là một điểm xung yếu phía nam thành Đại La.
(0) Bình luận
  • Ô Quan Chưởng - Cửa ô cuối cùng của Hà Nội
    Cửa Ô Quan Chưởng nằm ở phía Đông thành Thăng Long xưa, hiện nay thuộc phường Đồng Xuân, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Đây là một trong những cửa ô quan trọng của thành Thăng Long còn sót lại cho đến ngày nay. Chứng kiến biết bao biến đổi thăng trầm của Thủ đô, giữa phố phường Hà Nội nhộn nhịp hôm nay, Ô Quan Chưởng vẫn sừng sững uy nghiêm, khoác lên mình vẻ đẹp cổ kính, bình yên...
  • Bảo tàng Mỹ thuật ở giữa làng quê (huyện Ba Vì)
    Xứ Đoài là một vùng đất tối cổ - vùng địa văn hoá, địa thi hoạ - nơi mà con người có thể trải nghiệm đời mình trong hệ sinh thái tự nhiên của vùng đất, đi qua những truyền thuyết, cổ tích, để từ đó tạo nên tâm tính, giọng nói đặc trưng của con người xứ Đoài. Nắng và gió, núi và sông xứ Đoài đã gợi cảm hứng sáng tác cho một Tản Đà, một Quang Dũng và nhiều thi nhân, hoạ sĩ: từ Tô Ngọc Vân, Nguyễn Gia Trí đến Sĩ Tốt, Nguyễn Tiến Chung, Nguyễn Tư Nghiêm, Nguyễn Sáng... và những thế hệ văn nghệ sĩ sau này, ở họ đều có những sáng tác xuất sắc về xứ Đoài.
  • Bảo tàng Chiến sĩ cách mạng bị địch bắt tù đày (huyện Phú Xuyên)
    Đi khắp các vùng miền của Tổ quốc, những cựu tù binh Phú Quốc đã sưu tầm kỷ vật, di vật, tranh ảnh có liên quan đến các nhà tù trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược mà đồng đội và các ông đã trải qua. Hơn 20 năm kiếm tìm và góp nhặt, Bảo tàng Chiến sĩ cách mạng bị địch bắt tù đày, do chính những người cựu tù năm xưa thành lập là những minh chứng chân thực về một thời oanh liệt và hào hùng của dân tộc.
  • Bảo tàng Quê hương phong trào chiếc gậy Trường Sơn (huyệnỨng Hoà)
    Hoà Xá là một làng quê nằm sát bờ tả sông Đáy, thuộc vùng ven chiêm trũng Khu Cháy. Nơi đây sớm có phong trào cách mạng ngay từ những năm 1930, là hậu phương trung thành của cuộc kháng chiến chống Pháp. Trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Hòa Xá được xem là quê hương của phong trào động viên thanh niên lên đường “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” và câu chuyện huyền thoại “chiếc gậy Trường Sơn”.
  • Khu Cháy, Bảo tàng Khu Cháy - một địa chỉ đỏ về truyền thống đấu tranh cách mạng ở Ứng Hoà, Phú Xuyên
    “Khu Cháy” là thuật ngữ để nói về một khu du kích trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp gồm 22 xã ở phía nam huyện Ứng Hoà và tây huyện Phú Xuyên, Hà Nội.
  • Bảo tàng Tổng cục II (quận Hoàng Mai)
    Toạ lạc tại số 322 đường Lê Trọng Tấn, quận Hoàng Mai, Hà Nội trên khuôn viên rộng 3.500m2, gồm 2 tầng nhà và phần trưng bày ngoài trời, Bảo tàng Tổng cục II hiện lưu giữ 5.830 hiện vật, trong đó có nhiều hiện vật quý hiếm gắn liền với cuộc đời hoạt động của nhiều chiến sĩ tình báo xuất sắc của Quân đội nhân dân Việt Nam. Với chức năng phục vụ công tác nghiên cứu, tham quan học tập, giáo dục truyền thống, Bảo tàng Tổng cục II chính thức được Bộ Văn hoá - Thông tin công nhận nằm trong hệ thống các bảo tàng cấp 2 toàn quân.
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
Đừng bỏ lỡ
Đình Kim Hoàng
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO