Tôi đi “nhặt” Hà Nội xưa cùng Nguyễn Công Hoan
Tôi thuộc thế hệ 8X, gắn bó với Hà Nội khi tiếng còi xe đã át đi nhiều âm thanh của một thời xa vắng. Ký ức về Hà Nội trong tôi là những con phố đã đổi thay tên gọi, những tòa nhà cao tầng vươn mình che khuất bóng cổ thụ, và những câu chuyện về quá khứ chỉ còn là lời kể của ông bà, cha mẹ. Tôi chưa từng hít thở bầu không khí của Hà Nội đầu thế kỷ 20, chưa từng bước chân trên con đường Cổ Ngư còn thắp đèn dầu hỏa năm 1918, hay lắng nghe tiếng "kèn đuổi ma" rờn rợn ở dốc Hàng Gà.

Thế nhưng, một ngày, tôi may mắn được "chạm" vào những trang ghi chép, nhật ký tưởng chừng vụn vặt của nhà văn Nguyễn Công Hoan – một người đã có nhiều năm gắn bó với Hà Nội, đã sống, đã yêu, đã day dứt với từng góc phố, từng nhịp thở của thành phố này.
“Nhớ và ghi về Hà Nội” (NXB Trẻ, 2004) là những dòng nhật ký tản mạn được Nguyễn Công Hoan viết ra theo dạng tản mạn nhớ gì ghi đó, ít xâu chuỗi, không liên mạch, có khi chỉ là dăm ba câu ngắn gọn không đầu không cuối vụn vặt. Tuy nhiên, khi tôi cặm cụi tổng hợp, chọn lọc, tìm cách xâu chuỗi lại theo một mạch nào đó – bức tranh Hà Nội của những năm đầu thế kỷ XX phần nào hiện ra sống động, rõ nét hơn.
Những con phố kể chuyện cổ
Nếu Hà Nội của tôi là một mạng lưới giao thông phức tạp thì Hà Nội của Nguyễn Công Hoan lại mang một vẻ đẹp khác, hoang sơ mà đầy chất thơ. Phố Nguyễn Thái Học, Phùng Hưng bây giờ sầm uất là thế, thì ngày ấy "toàn là bãi cỏ hoang", và "quá chợ Hôm, từ quãng đường hơi cong ở phố Huế, là bắt đầu ruộng rồi." Ruộng kéo dài tít tắp đến tận chợ Mới Mơ, ngã tư Trung Hiền. Ngay cả Thụy Khuê cũng đã là ngoại thành, với cột cây số 3 bằng gỗ nằm cạnh cây gạo lớn.
Tôi hình dung một Hà Nội đang khẽ chuyển mình. Từng con phố cũ kỹ mang tên của những vật dụng (Hàng Hài, Hàng Trống, Hàng Đào) là nơi Tây đen bán vải, Hoa kiều bán tạp hóa và mở cao lâu (như Đông Hưng Viên trứ danh), hay những cửa hiệu người Nhật bí ẩn như Yamađa ở Hàng Trống. Tôi lại nghĩ đến Hàng Ngang, cái tên được lý giải là vì có cổng chắn ngang hai đầu phố – một chi tiết giản dị mà ẩn chứa biết bao câu chuyện về sự giao thương và cả những cuộc ẩu đả của khách Quảng Đông.
Trên những chuyến xe và cầu thép
Hà Nội ngày nay tràn ngập xe máy, ô tô và những tuyến đường sắt đô thị đang thành hình. Nhưng Hà Nội của Nguyễn Công Hoan lại có những chuyến xe, những cây cầu mang đậm dấu ấn thời đại.
Xe ngựa, xe cao-su (xe kéo) là phương tiện chính. Tôi bật cười khi đọc câu chuyện cậu bé Hoan (chắc hẳn là nhà văn) ném đá vào "thằng Tây đương thổi kèn" để không bị chửi, hay trò chơi được anh xe kéo "hóng mát bằng xe cao-su mà không mất đồng xu nào" ở Hàng Trống. Đó là sự tinh quái, hồn nhiên của tuổi thơ, một nét đáng yêu giữa bối cảnh thuộc địa.
Hệ thống giao thông công cộng cũng đang hình thành. Những chuyến xe điện len lỏi trong thành phố, đôi khi còn suýt va chạm với xe lửa vì đèn dầu hỏa thắp trên đầu toa, tạo nên một cảnh tượng thót tim mà Nguyễn Công Hoan đã chứng kiến. Còn những chuyến tàu lửa đi đêm, người bám chi chít như sung, ngồi cả trên nóc toa, phải chui qua cửa sổ mà nhảy xuống ga. Đó là hình ảnh của sự thiếu thốn, nhưng cũng là sự thích nghi của con người trong bối cảnh khó khăn.
Và rồi, sừng sững giữa dòng sông Hồng là Cầu Long Biên (tên ban đầu là cầu Đu-me), khánh thành năm 1902. Đọc về quá trình xây dựng, tôi rợn người khi biết nhiều người thợ đã "rực lên vì dưỡng khí mà chết" trong "Vịnh khí chung" (ống hơi) khi làm chân cầu. Cây cầu thép ấy không chỉ là một công trình vĩ đại, mà còn là nấm mồ chung của bao phận người lao động vô danh, luôn được sơn đi sơn lại bằng lớp sơn đỏ rồi xám – một vòng lặp vĩnh cửu của sự tồn tại.
Mùa lễ hội và những khía cạnh văn hóa độc đáo
Hà Nội của tôi có những mùa lễ hội sôi động với ánh đèn điện và âm nhạc hiện đại. Nhưng Hà Nội xưa, qua ngòi bút của Nguyễn Công Hoan, lại hiện lên với những nét văn hóa tinh tế và cả những bi kịch tiềm ẩn.
Tết Nguyên Đán có thú chơi thủy tiên đầy nghệ thuật. Tôi không khỏi trầm trồ trước sự khéo léo của người xưa: không chỉ trồng, mà còn tỉa lá uốn cong, lái nụ hoa mọc ngang, mọc chéo theo hình rồng phượng, hay "hãm từng giò hoa để đợi nhau" nở đúng giao thừa. Đó là sự tinh tế, cầu kỳ mà chỉ những người Hà Nội sành chơi mới có.
Tết Trung thu vốn không phải là Tết trẻ con, với những màn múa rồng, múa sư tử của người lớn, đèn cù quay tít tắp. Nhưng rồi, vì những "tụi du côn" tranh nhau giải, dùng xà beng đánh nhau thành án mạng, mà Tết Trung thu bỗng hóa thành "Tết trẻ con" dưới lệnh cấm của Tây. Từ những nét văn hóa cộng đồng sôi động, một cái phẩy tay của quyền lực đã biến nó thành sân chơi của con trẻ. Đó là một sự chuyển mình vừa đáng tiếc, vừa cần thiết để giữ gìn sự bình yên.
Nguyễn Công Hoan cũng đưa tôi đến những rạp hát, rạp chiếu bóng đầu tiên. Từ những rạp tuồng Năm Chăn, Thông Sáng thô sơ ở Hàng Quạt, đến sự ra đời của cải lương Quảng Lạc ở ngõ Sầm Công (Tạ Hiện) với sân khấu có phông màn, diễn viên mũ áo lộng lẫy từ Thượng Hải. Hay những rạp chiếu bóng "chớp ảnh" như Pathé frères lợp tôn nóng bức, nơi Tây và nhà giàu đến xem phim, với những tấm vé "hạng bét" chỉ một hào. Tôi mỉm cười, hình dung ra cảm giác lạ lẫm, tò mò của người dân Hà Nội khi lần đầu tiếp xúc với những loại hình giải trí mới mẻ này.
Những mảnh đời vụn vặt
Những ghi chép của Nguyễn Công Hoan không chỉ là về phố xá, mà là về con người. Ông vẽ nên những chân dung giản dị nhưng sống động, từ những chi tiết vụn vặt nhất.
Có những thợ giặt thuê ở Phùng Hưng, là quần áo bằng bàn là than đá, hồ cổ áo trắng cứng và bóng loáng – một nét đặc trưng của "cung cách người Hà Nội" thời ấy.
Có những người khóc mướn – một nghề nghiệp đặc biệt, thể hiện sự coi trọng tang lễ và cả những thiếu thốn về nhân lực, tình cảm của người chết ít con cháu. Họ khóc lóc, kể lể thảm thương đến nỗi người ngoài nghe rất cảm động, dù có lẽ nước mắt chưa chắc đã rơi.
Rồi có những Tây đen bán vải ở Hàng Đào, Sét-ty cho vay nặng lãi ở Hàng Gai – những mảnh ghép của một xã hội đa chủng tộc, đa văn hóa nhưng cũng đầy rủi ro.
Hay hình ảnh các "cô đầu" ở Hàng Giấy, Thái Hà ấp, nơi người ta "lên Hàng Giấy" hoặc "xuống Ấp" để nghe hát. Và cả câu chuyện buồn về người em gái hát rong rồi sau làm nghề mãi dâm, khiến Nguyễn Công Hoan phải thốt lên rằng "những quân sa đọa sống trong xã hội thối tha, chúng nó có tha ai mà không làm hại?" – một câu hỏi day dứt về phận người trong vòng xoáy mưu sinh và tệ nạn.
Dư âm ký ức
Hành trình lật giở những trang nhật ký của Nguyễn Công Hoan, với tôi, không chỉ là việc đọc tư liệu, mà là một cuộc đối thoại thầm lặng với quá khứ. Tôi không sống ở Hà Nội xưa, nhưng qua những dòng chữ của ông, tôi cảm nhận được nhịp đập của một thành phố đang thay da đổi thịt, của những con người đang vật lộn, tồn tại và kiến tạo.
Những ghi chép vụn vặt của Nguyễn Công Hoan, như những hạt bụi thời gian, khi được gom lại và sắp đặt, đã tạo nên một bức tranh sinh động về Hà Nội đầu thế kỷ 20. Một Hà Nội xa lạ nhưng thân thương, đẹp đẽ mà cũng đầy góc khuất, để mỗi người con sinh ra sau này như tôi có thể hình dung và trân trọng hơn mảnh đất mình đang sống.
Và tôi tin, chỉ cần ta mở lòng lắng nghe, những ký ức ấy sẽ mãi sống động, như một dòng chảy bất tận giữa thời gian trong tâm hồn mỗi người yêu Hà Nội./.
Tác phẩm tham dự cuộc thi viết "Hà Nội và tôi" của tác giả Lương Đình Khoa. Thông tin về cuộc thi xem tại đây.