Chùa Bồ Đề (quận Long Biên)
Chùa Bồ Đề toạ lạc trên một bãi ven sông Hồng ở ngoài đê bên bờ bắc phía hạ lưu, thuộc phường Bồ Đề, quận Long Biên, Hà Nội.
Chùa Bồ Đề có tên chữ là “Thiên Sơn tự” hay “Thiên Sơn cổ tự”, là một ngôi chùa cổ có lịch sử xây dựng lâu đời. Theo truyền tích ở địa phương, tên nôm của chùa là Bồ Đề đã xuất hiện từ thời Lý, bởi nơi đây có 2 cây bồ đề lớn đối xứng qua sông Hồng là tháp Báo Thiên ở kinh thành Thăng Long. Cũng theo sử sách chép lại, khi bao vây quân Minh ở thành Đông Quan, Lê Lợi và Nguyễn Trãi đã đặt đại bản doanh ở địa điểm có tên là Bồ Đề, việc có phải là Bồ Đề này hay ở nơi khác còn cần được nghiên cứu thêm. Có một thời gian ở Bồ Đề lập thành một trạm dịch nghỉ, có bến đò, là một cảnh đẹp của Thăng Long... Chùa Bồ Đề thờ Phật, cúng Mẫu theo giáo phái Đại Thừa cũng giống như đại đa số các chùa làng của miền Bắc nước ta.
Chùa Bồ Đề có từ bao giờ? Căn cứ vào một tấm bia đá cổ của chùa hiện còn giữ được khắc năm Hoằng Định thứ 15 (1614) có thể nói, chùa Bồ Đề ra đời sớm hơn thời điểm này, ít nhất cũng từ thế kỷ XVI để đến đầu thế kỷ XVII có sự trùng tu sửa chữa lại chùa như nội dung bia đã phản ánh. Nội dung bia có ghi khá nhiều tư liệu quý góp phần tìm hiểu niên đại cũng như quy mô của ngôi chùa trong lịch sử. Trong bia có nhắc đến cung Bồ Đề: “Đế Kinh ư thử đô hội” (tức là Đế Kinh lại triều hội ở chỗ này).
Chùa Bồ Đề hiện toạ ngự ở một khu đất rộng, xung quanh chùa có nhiều cây cổ thụ, nhiều hơn cả là nhãn, khu đất ở sát mép nước sông Hồng, quang cảnh xanh mát. Tổng thể kiến trúc chùa gồm nhiều công trình như: chùa chính, nhà Tổ, đền Mẫu, nhà khách, khu mộ tháp, nhà ở, bếp và các công trình phục vụ... Đáng chú ý nhất là chùa chính với kiến trúc có 2 phần là Tiền đường và Thượng điện kết cấu liền nhau theo lối chữ “đinh”.
Tiền đường có 5 gian 2 chái, có 4 mái làm đạo cong các góc, lợp ngói ta, nền lát gạch. Nền chùa làm cao để tránh nước ngập mùa lũ với 11 bậc thềm, cao gần 2m, 2 bên thềm có đôi sấu đá mang phong cách nghệ thuật thời Hậu Lê. Trên nóc Tiền đường có ghi niên đại trùng tu năm Nhâm Dần (1902). Như vậy có cơ sở để nói chùa giữ kiến trúc Tiền đường của những năm đầu thế kỷ XX.
Thượng điện của chùa làm mái vòm cuốn bê tông, bên ngoài có xây thành 3 lầu gác chuông, mái làm đạo 2 tầng chồng diêm tạo cho kiến trúc bớt nặng nề. Hậu cung đã được sửa lại sau chiến tranh. Hầu hết các tượng Phật ở chùa được tạo tác ở thời Nguyễn. Ngoài tượng ở chùa còn có 5 câu đối gỗ, có cửa võng thiều châu, hoành phi, đây là những cổ vật có trang trí đẹp, mang dấu ấn nghệ thuật thời Nguyễn cuối thế kỷ XIX.
Phía trước sân của chùa có 2 nếp nhà, bên phải là điện Mẫu, bên trái là nhà Tổ. Hai nếp nhà này đều làm bê tông giả gỗ, bố cục Hậu cung chuộc duộc, tường hồi bít đốc tay ngai có trụ biểu, nhưng mái lợp ngói ri, đã duy trì được dáng vẻ bên ngoài lối kiến trúc cổ truyền. Điện Mẫu và nhà Tổ có tượng Tổ, tượng Mẫu, có linh vị của Hoà thượng Thích Tâm Tịch. Chùa Bồ Đề còn lưu giữ nhiều di vật, đáng chú ý là 4 tấm bia đá có niên đại: Hoàng Định thứ 15 (1614), Minh Mệnh thứ 19 (1838), Thành Thái thứ 1905), Khải Định thứ 5 (1920); 3 bia thời Nguyễn ghi tên những người công đức tu sửa, gửi giỗ ký hậu ở chùa. Tấm bia thời Hậu Lê có trang trí hoa văn đẹp và đặc biệt là trong nội dung bài minh có nhiều tư liệu quý./.
Theo Hà Nội Danh thắng và Di tích tập 02