"Chúng ta cũng có Hà Nội, một thà nh phố rất nhiửu vẻ đẹp vì Hà Nội đẹp thật và cũng vì chúng ta mến yêu. Yêu mến Hà Nội với tâm hồn người Hà Nội cũng như người Paris chính hiệu yêu mến Paris..." "Trong những cuộc phiếm du-phiếm du ngoà i các phố Hà Nội là một cái thú vô song, chỉ người Hà Nội có... ở những hang cùng ngõ hẻm của là ng xa, hay những nương mật thẳm trong rừng núi, ban chiửu vẫn có nhiửu người ngóng vử một phương trời để cố trông cái ánh sáng mử của Hà Nội chiếu lên nửn mây." "Để cho những người mong ước kinh kử³ ấy, và để cho những người ở Hà Nội, chúng ta khuyến khích yêu mến Hà Nội hơn, chúng ta nói đến tất cả những vẻ đẹp riêng của Hà Nội, khiến mọi sự đổi thay trong ba mươi sáu phố phường đửu có tiếng vang ra khắp mọi nơi. Hà Nội hiện nay có 9 quận, 5 huyện gồm 128 phường, 98 xã và 6 thị trấn, nhưng đó là phường và phố Hà Nội hiện nay, còn ca dao cổ có câu: Hà Nội băm sáu phố phường. Hà ng Gạo, Hà ng Đường, Hà ng Muối trắng tinh.
Khu phố cổ "36 phố phường" của Hà Nội được giới hạn bởi đường Hà ng Đậu ở phía Bắc, phía Tây là đường Phùng Hưng, phía Đông là đường Trần Nhật Duật và Trần Quang Khải, phía Nam là đường Hà ng Bông, Hà ng Gai, Cầu Gỗ, Hà ng Thùng. Khu phố cổ được biết đến hiện nay được thiết kế và quy hoạch theo phong cách kiến trúc Pháp với mạng lưới đường hình bà n cử, nhưng dấu vết lịch sử thì lại in đậm ở nhiửu lớp văn hoá chồng lên nhau. Thăng Long-Hà Nội là một vùng văn hoá truyửn thống đặc biệt bởi vì đến hết thế kỷ XVI Thăng Long-Đông Đô-Đông Kinh vẫn là đô thị độc nhất của nhà nước Đại Việt lúc ấy. Kẻ Chợ tên gọi khác của Thăng Long-Hà Nội xưa có thà nh, có thị, có bến, có 36 phường buôn bán và thợ thủ công, có chợ ô ven đô, có các là ng nghử chuyên canh và chế biến nông sản. Dân tà i tứ xứ kéo vử Thăng Long-Hà Nội, họ cọ xát, đua trí, đua tà i tạo nên nét tà i hoa độc đáo chỉ có ở người Hà Nội, ở đất Hà Nội, đó là cách sà nh mặc, sà nh chơi, sà nh ăn, sà nh là m. Thương nhân và thợ thủ công sống rải rác trong tất cả các phố phường.
Phố già u có như Mã Mây tập trung khá nhiửu nhà buôn lớn, nhất là thương nhân Hoa Kiửu. Đường xá ở đây được lát sạch sẽ. Các phố được ngăn với nhau bởi những chiếc cổng lớn xây như bức tường mà bử rộng chiếm cả mặt đường, ban đêm được đóng một cách nghiêm ngặt. Trong mỗi phố là những dãy nhà san sát là m theo kiểu chồng bao diêm mà hiện nay chúng ta còn thấy ở các phố Hà ng Buồm, Hà ng Bạc, Hà ng Ngang, Hà ng Đà o... Các dãy nhà nà y vừa là nhà ở lại vừa là cửa hiệu. Dưới thời nhà Lý, nhà Trần, Phố cổ Hà Nội bao gồm nhiửu phường trong tổng số 61 phường thời đó. Và o thời Lê, đầu thế kỷ XVI, Hà Nội trở thà nh Đông Kinh, khắp nơi đổ vử buôn bán là m ăn trong 36 phường lúc bấy giử, và dần dần, nơi đây chính là khu Phố Cổ thời nay. Cùng với những yếu tố nổi trội vử lịch sử, khu Phố Cổ xứng đáng được xem như là một không gian, mà tại đó một thời đã thể hiện một dấu ấn không thể phai mử vử một cuộc sống đô thị khá toà n diện vử kinh tế, xã hội, tập quán, truyửn thống.
Phường
Và o thời Lê, "phường" ngoà i nội dung chỉ các tổ chức của những người cùng là m một nghử (phường chèo, phường thợ) thì còn một nội dung nữa, chỉ những khu vực địa lý được coi là đơn vị hà nh chính cấp cơ sở ở kinh thà nh Thăng Long. Sử cũ còn ghi Thăng Long đời Lê gọi là phủ Phụng Thiên. Chia ra hai huyện Vĩnh Xương (sau đổi ra Thọ Xương) và Quảng Đức (sau đổi ra Vĩnh Thuận). Mỗi huyện 18 phường.
Như vậy, Thăng Long có 36 phường. Suốt ba thế kỷ, nhà Lê vẫn giữ nguyên sự phân định hà nh chính đó. Phường là tổ chức nghử nghiệp (chỉ có ở kinh thà nh Thăng Long) còn đơn vị tương đương với là ng xã ở vùng nông thôn. Đây là nơi sống và là m việc của những người là m cùng một nghử thủ công. Trong số các nghử mà sau đó phát triển ở Hà Nội là nghử nhuộm, dệt, là m giấy, đúc đồng, rèn và gốm. Ở đây còn có nghử đúc tiửn (sắt và đồng), đóng thuyửn, là m vũ khí và xe kiệu.
Khi xưa, khu 36 phố phường phát triển trong môi trường có nhiửu ao hồ. Khu nà y được sông Tô Lịch bao bọc ở phía Bắc, sông Hồng ở phía Đông và hồ Hoà n Kiếm ở phía Nam. Khu vực chợ và nhà ở đầu tiên được đặt tại nơi sông Tô Lịch và sông Hồng gặp nhau. Cửa sông Tô Lịch là bến cảng và có thể có rất nhiửu con kênh nhử nằm rải rác trong khu Phố Cổ. Từ thế kỷ XV, khu Kinh Thà nh gọi là phủ Trung Đô gồm 2 huyện với tổng số 36 phường. Trong thời kử³ nà y đa phần huyện Thọ Xương, hầu hết các phố đửu là nơi buôn bán, rất nhiửu đửn và chùa cũng được xây và o thời kử³ nà y.
Đến khoảng giữa thế kỷ XIX, hai huyện Thọ Xương, Vĩnh Thuận vẫn y nguyên 13 tổng nhưng con số các phường, thôn, trại rút xuống mạnh (do sáp nhập): Thọ Xương còn 113 phường, thôn, trại. Vĩnh Thuận còn 40 phường, thôn, trại. Tổng cộng là 153 phường, thôn, trại. Như vậy, nhà Lê cho Thăng Long hưởng một quy chế riêng (gọi là Phủ, trực thuộc trung ương và suốt ba thế kỷ chỉ gồm có 36 phường). Ngược lại, nhà Nguyễn đã đánh đồng Thăng Long với các phủ khác, phải lệ thuộc và o tỉnh và cũng có tổng, có thôn, có trại như mọi nơi. Trên thực tế không có cái gọi là "Hà Nội 36 phố phường".
Chỉ có Thăng Long thời Lê có 36 phường hoặc là Hà Nội thời Minh Mạng có 239 phường, thôn, trại và Hà Nội thời Tự Đức với 153 phường, thôn, trại.
Phố
Phố khác hẳn phường. Nếu phường nguyên nghĩa là một khu vực hà nh chính thì phố nguyên nghĩa là chỗ bán hà ng, nơi bà y hà ng (tức là như ta nói ngà y nay là cửa hà ng, cửa hiệu). Phố có thể là một ngôi nhà , một chỗ trống lấy là m nơi bà y hà ng hóa để buôn bán. Ví dụ như cụm từ phố Hà ng Trống nguyên nghĩa chỉ là một ngôi nhà , một cửa hà ng bán trống. Phố Hà ng Chiếu vốn chỉ một nhà bà y bán chiếu... Các "phố" (phố với nghĩa là cửa hà ng, cửa hiệu) tập trung ken sát nhau thà nh một dãy nên được gọi tắt là phố.
Hà ng
Đặc điểm chung của các phố cổ Hà Nội là nhiửu tên phố bắt đầu bằng từ "Hà ng", tiếp đó là một từ chỉ một nghử nghiệp nà o đó. Thí dụ: Hà ng Đà o, Hà ng Đường, Hà ng Mã, Hà ng Thiếc...
Từ đời Lê (thế kỷ XV), nhiửu người Trung Quốc được phép cư trú ở Thăng Long (Hà Nội), họ rủ nhau đến là m ăn buôn bán ở phố Hà ng Ngang (xưa kia ở hai đầu phố có dựng hai cái cổng chắn ngang đường, tối đến đóng lại). Do đó thà nh tên Hà ng Ngang. Như tên gọi Hà ng Đường có rất nhiửu cửa hà ng bán đường, mứt, bánh, kẹo. Sát với chợ Đồng Xuân là phố Hà ng Mã - chuyên bán các mặt hà ng truyửn thống là m từ các loại giấy mà u. Từ đầu phố Hà ng Mã đi thẳng sang phố Hà ng Chiếu dà i 276m (nơi bán nhiửu loại chiếu thảm bằng cói) là đến à” Quan Chưởng (cửa Đông Hà ) di tích khá nguyên vẹn của một trong 36 phố phường Thăng Long xưa hay phố nghử rất điển hình: Hà ng Thiếc. Mỗi nghử còn giữ lại trên tên phố Hà Nội nay đã qua bao thay đổi, đến nay đã có hơn sáu mươi phố bắt đầu bằng chữ Hà ng như Hà ng Đà o, Hà ng Tre, Hà ng Sắt, Hà ng Mà nh, Hà ng Bún, Hà ng Bè...
Trong các phố của Hà Nội hiện nay, có những phố nguyên có chữ Hà ng nhưng đã được mang tên mới như Hà ng Cử (tức phố Trần Hưng Đạo ngà y nay), Hà ng Đẫy (Nguyễn Thái Học), Hà ng Giò (Bà Triệu phía gần Hồ Hoà n Kiếm), Hà ng Lọng (Đường Nam bộ rồi Lê Duẩn), Hà ng Nâu (Trần Nhật Duật), Hà ng Kèn (Quang Trung), Hà ng Bột (Tôn Đức Thắng). Khu phố cổ Hà Nội từ cuối thế kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ XX cơ cấu đô thị trở nên dà y đặc hơn. Khu phố cổ được mở rộng tập trung theo hướng trung tâm của khu phố. Các ao, hồ, đầm, dần dần bị lấp kín để lấy đất xây dựng. Khu phố cổ Hà Nội là một quần thể kiến trúc độc đáo, mang nặng bản sắc dân tộc Việt, có sắc thái đặc trưng của một khu dân cư sản xuất chủ yếu là nghử thủ công truyửn thống.
Nơi đây diễn ra đồng thời nhiửu hoạt động trong đời sống hằng ngà y của cư dân đô thị như sinh sống, bán hà ng sản xuất, lễ hội, nghỉ ngơi, vui chơi giải trí, tạo nên một sức sống mãnh liệt để khu phố cổ tồn tại vĩnh viễn và phát triển không ngừng. Sau khi thực dân Pháp đánh chiếm Hà Nội, quy hoạch Hà Nội bắt đầu có sự thay đổi. Khu phố cổ có nhiửu thay đổi mạnh mẽ, đường phố được nắn lại, có hệ thống thoát nước, có hè phố, đường được rải nhựa và có hệ thống chiếu sáng, nhà cửa hai bên đường phố được xây gạch lợp ngói. Bên cạnh những nhà cổ mái ngói xuất hiện các ngôi nhà có mặt tiửn được là m theo kiểu cách Châu à‚u. Khu phố cổ Hà Nội từ 1954-1985, dân cư có sự thay đổi, nhiửu gia đình từ chiến khu trở vử được bố trí và o ở khu phố cổ. Kể từ đó số hộ ở trong mỗi số nhà cứ tăng dần lên từ một hộ đến hai, ba hộ, rồi mỗi hộ gia đình lại phát triển thêm theo kiểu tam đại, tứ đại đồng đường...
Từ 1954 trở đi, do chính sách cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh, chính sách phát triển sản xuất, chính sách kinh tế của thời bao cấp (Nhà nước đảm nhận việc cung cấp mọi nhu yếu phẩm cho cuộc sống của dân cư qua hệ thống các cửa hà ng bách hoá và dịch vụ...). Toà n bộ khu phố cổ nơi buôn bán sầm uất đã trở thà nh khu dân cư ở (1960-1983), đa số dân cư trở thà nh cán bộ, công nhân viên, phục vụ cho xí nghiệp, hợp tác xã các cơ quan thà nh phố... Mặt tiửn của nhiửu nhà cửa được sửa lại thà nh mặt tiửn nhà ở có cửa ra và o và cửa sổ. Phố xá yên tĩnh hơn. Sự nhộn nhịp phố xá tuử³ ở từng nơi từng lúc thường theo giử ca kíp đi là m và o sáng, trưa, chiửu tối, sự nhộn nhịp còn ở các khu chợ, các cửa hà ng bách hoá, cửa hà ng chuyên doanh của Nhà nước của hợp tác xã (như chợ Đồng Xuân, chợ Hà ng Da...).
Dân cư ở khu phố cổ cứ tăng dần lên, lấn chiếm các không gian trống của các sân trong từng nhà . Một số mặt hà ng thủ công truyửn thống bị mai một. Khu phố cổ từ 1986 đến nay, dưới đường lối đổi mới của Đảng đã khuyến khích mọi tầng lớp nhân dân xây dựng mở mang phát triển kinh tế-văn hoá-xã hội. Buôn bán ở khu phố cổ dần dần được phục hồi, phát triển và sầm uất hơn xưa. Nhiửu ngôi nhà cổ được cải tạo đổi mới, nhiửu nhà xuống cấp, bị hửng được xây dựng lại với nhiửu kiểu cách. Nhiửu đình, đửn, chùa được tu sửa. Góp phần và o không khí hoạt động của khu phố cổ trong một thập kỷ gần đây là lượng khách du lịch đông đảo, là nhân tố tích cực thúc đẩy hoạt động thương mại, dịch vụ, văn hoá.
Do vậy, một số nhà ở trong khu phố cổ được cải tạo thà nh khách sạn mi ni; thà nh các quán ăn đặc sản; các cửa hà ng ở tầng 1 được trang trí nội thất khang trang hấp dẫn. Khu phố cổ Hà Nội là hiện thân của lịch sử, văn hóa, kiến trúc kinh kử³ Thăng Long xưa, mang hồn thiêng khí phách lịch sử dân tộc, là một di tích vô cùng quý giá của Thủ đô Hà Nội và của cả nước. Chính vì vậy, Bộ trưởng Bộ Văn hoá Thông tin (nay là Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch) đã ra Quyết định số 14/2004/QĐ-BVHTT xếp hạng khu phố cổ Hà Nội là di tích lịch sử quốc gia.
Đây là niửm vinh dự đối với người dân Thủ đô, đồng thời cũng đặt ra trách nhiệm không nhử không chỉ đối với người quản lý, mà cả đối với bản thân người dân sống trong khu phố cổ trong việc gìn giữ và bảo tồn khu phố của mình. Từ ngà y 1/10/2004 đến nay, tuyến phố đi bộ trong khu phố cổ được hình thà nh và đi và o hoạt động. Tuyến phố đi bộ hoạt động và o các buổi tối thứ sáu, thứ bảy và chủ nhật hằng tuần. Mùa hè bắt đấu từ 20 đến 24 giử và mùa đông từ 19 đến 24 giử./.