Văn chương Việt Nam Những nhà thơ thế kỷ XX: Tú Xương trào phúng gặp trữ tình không hẹn trước

Vũ Quần Phương| 12/07/2019 15:14

Tên hồi nhỏ là Trần Duy Uyên. Năm 15 tuổi, khi đi thi Hương lần đầu tiên, đã đổi là Trần Tế Xương. Trong suốt cuộc đời 37 năm, Trần Tế Xương tham dự tất cả các khóa thi Hương, nhưng chỉ có một lần đỗ tú tài, khóa 1894 mà thơ Nôm của ông thì ngày càng được truyền tụng rộng rãi.

Tú Xương trào phúng gặp trữ tình không hẹn trước

Tên hồi nhỏ là Trần Duy Uyên. Năm 15 tuổi, khi đi thi Hương lần đầu tiên, đã đổi là Trần Tế Xương. Trong suốt cuộc đời 37 năm, Trần Tế Xương tham dự tất cả các khóa thi Hương, nhưng chỉ có một lần đỗ tú tài, khóa 1894 mà thơ Nôm của ông thì ngày càng được truyền tụng rộng rãi. Người đời quen gọi ông là Tú Xương và coi thơ ông là một đặc sản của thành Nam “đọc thơ Xương ăn chuối ngự". Ông sinh sau Nguyễn Khuyến 35 năm (1870) và mất trước Nguyễn Khuyến hai năm (1907). Ngày tang ông, nhà thơ đại khoa có đối viếng ông nhà thơ tú tài. Khâm phục, chân tình biết bao:

Kìa ai chín suối Xương không nát
Có lẽ nghìn thu tiếng vẫn còn 

Tâm hồn phóng khoáng và trí tuệ sắc sảo của Tú Xương quả không thể khuôn vừa cái vòng thi cử chật hẹp và lạc hậu thời Nho mạt. Khoa cử lận đận là nỗi hận lớn của Tú Xương nhưng lại góp phần quan trọng làm bộc lộ tài thơ Tú Xương, tạo nên giọng thơ trào phúng hào sảng, bắt hiện hình lên cả một xã hội nhố nhăng Tây Tầu, hung hăng dốt nát, hợm hĩnh tôi đòi, rất thảm hại. Mặt khác, tình thế kẻ tài năng lạc thời Vay nợ lắm khi tràn nước mắt/ Chạy ăn từng bữa toát mồ hôi lại cho ông sức thông cảm sâu sắc và cái nhìn thấm thía vào thảm cảnh đất nước và cuộc sống lầm than của mỗi đời dân. “Nói dại" nếu Tú Xương thi cử lại thành đạt rồi nhận chức quan to quan bé nào đó thì chắc nền thơ nước ta chẳng thể có được một giọng trào phúng phóng khoáng, một tài năng ứng tác nhanh nhạy, nhọn sắc đến thế. Riêng cái mảng thơ thi cử thời ấy, ai mà thay Tú Xương được Tấp tểnh người đi tớ cũng đi/ Cũng lều cũng chõng cũng đi thi. Thi mãi, trượt mãi, hóa nhàm, ba năm một khóa, đến hẹn lại thi, thì thi. Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ. Trông bộ dạng ông đi thi đã buồn cười. Nên ông quan trường cũng thành thứ thét lạc ậm ọe. Nào có ra gì cả lũ. Thì từ gốc rồi Nào có ra gì cái chữ Nho/ Ông nghè ông cống cũng nằm co. Tú Xương tự than. Câu thơ nhẹ nhõm như tự đến. Có giai thoại kể vừa xướng danh xong đã nghe ai đọc Năm nay đỗ rặt phường hay chữ. Câu thơ như một lời bình luận tự phát của một người am hiểu nội tình, đủ xổ toẹt kết quả một phen kén hiền tài. Thằng hỏng đã nhục, thằng đỗ còn nhục hơn: 

Một đàn thằng hỏng đứng mà trông
Nó đỗ khoa này có sướng không
Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt 
Dưới sân ông cử ngỏng đầu rồng 

Tú Xương có mặt trong đám ấy đấy. May là trong đám thằng hỏng, ông tự xỉ vả mình nhưng khóa sau, nhà nước mở, ông lại thi. Thi như một bản năng sinh vật của cái loài gọi là sĩ tử. Mà Tú Xương thì giàu bản năng lắm cho nên ông mới lắm chuyện để viết. Xuân Diệu phát hiện Tú Xương có cái tài “làm những câu thơ vặt vãnh thành những câu thơ hay". Nói bao quát hơn là làm những thứ vặt vãnh thành những câu thơ hay. Mà tài năng là vậy. Trong cõi tâm hồn, chẳng có gì là vặt vãnh cả. Đi hát mất cái ô. Chuyện ấy, mấy ai làm thơ. Đến mất ví, trong ví có nhiều tiền, việc đáng làm là viết đơn trình công an. Làm thơ, dễ thành anh bủn xỉn. Trong các thứ mất, có lẽ mất người yêu, là có thể thơ được, nước mắt nước mũi còn có giá trị tình cảm. Chứ mất ô, lại mất ở cái chỗ cũng không đáng khoe. Ấy thế mà ông Tú làm thơ, cũng đủ các thứ chi tiết như cái đơn trình sở cẩm việc mất của trong sáu câu đầu (xem bài tuyển) nhưng đến hai câu cuối: Sợ khi rày gió mai mưa/ Lấy chi đi sớm về trưa với tình thì thoắt một cái, sự tích cái ô còn đấy nhưng tình cảm bài thơ đụng đến ta lại hoàn toàn trong cõi tinh thần. Ấy là lòng tin, không, rộng hơn, phải là lòng tin yêu giữa con người với nhau. Đấy, cái vặt vãnh Tú Xương nó ở cái dạng như vậy:

Trời không chớp bể với mưa nguồn
Đêm nảo đêm nao tớ cũng buồn

Cái này thì không vặt vãnh. Nó là cái lơ mơ, cái man mác, không thành hình thành khối chiếm vào không gian tâm trí nhưng nó thường trực. Ông Tú Xương có nỗi buồn thường trực mà tôi dám chắc không phải nỗi buồn hỏng thi đau quá đòn thù, rát hơn lửa bỏng. Nỗi buồn này không rát, không đau mà bàng bạc, cao, xa,  thăm thẳm. Nó làm nền cho tiếng gọi đò đêm trong bài Sông Lấp:

Vẳng nghe tiếng ếch bên tai
Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò
Nó tạo nên nỗi quạnh vắng trong bài Lạc đường:
Hỏi người chỉ thấy non xanh ngắt
Đợi nước càng thêm tóc bạc phơ

Hỏi người, đợi nước! Tóc bạc phơ, thôi đành chịu. Nhưng sao sợ quá cái màu núi thượng du xanh ngắt kia. Nó dày đặc, nó sâu hút, nó vô vọng. Chỗ để Tú Xương cất lên mạch trữ tình là những nỗi niềm ấy. Nó là nỗi đau của thời thế, của dân nước và cũng của riêng ông nữa:

Cha một nơi mà con một nơi
Bấm tay tháng nữa hết năm rồi    
Riêng hệ lụy của cái sự hỏng thi, suốt đời ăn lương vợ, đã là bao nhiêu cung bậc trữ tình buồn.
Trong bài thơ Thương vợ:

Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng

Mượn giọng vui để nói lòng thương vợ. Cộng 5 con với 1 chồng thì nó ra cái đơn vị gì. Nó ra 6 cái tàu há mồm. Tú Xương muốn tếu táo giọng vui quen thuộc khi nói tới vợ con. Nhưng câu thơ cứ chạm vào nước mắt. Công việc thường ngày của bà Tú đã đủ vất vả hiểm nguy. Chất liệu làm nên câu thơ đủ nói lòng biết ơn chứ ông Tú, ở mảng này, ít khi để thơ nói ra lời:

Lặn lội thân cò, khi quãng vắng, 
Eo sèo mặt nước, buổi đò đông. 

Chỉ khi ông Tú thú tội mình thì ông mới nói ra lời, nhiều khi nặng lời như mắng nhưng sao vẫn trong  giọng vui, tưởng như nghe xong là sạch tội. Nhưng có điều này, đôi lúc như ông vô tình chợt hé lòng mình, điều không định nói lại lộ ra nhỡn tiền thiên hạ. Buồn mình thi hỏng mãi, ông than:

Đeo tiếng văn chương cho thế mỉa
Cực lòng cha mẹ đẻ con ra

Than như câu trên, một ông thông tuệ xuất khẩu thành thơ, mà 8 khoa liền từ 1885 đến 1906,  trước hỏng sau hỏng, chỉ một khoa năm 1894 trúng cái tú tài thì đời nó cũng dễ mỉa mai lắm chứ. Nhưng đến câu sau chạnh nghĩ đến nỗi lòng cha mẹ, vẫn cứ luôn mong ngóng sự thành đạt của mình trong chừng ấy năm trời, câu thơ bỗng nhiên thống thiết. Có lẽ, với Tú Xương, trong nỗi đau hỏng thi đây là nơi đau nhất. Ngay cả lúc Mai không tên tớ tớ đi ngay/ Giỗ tết từ đây nhớ lấy ngày Quyết liệt thế, cực đoan thế nhưng mà chia sẻ được. Kêu lên để được chia sẻ thôi. Chứ ở đây, nỗi cực của lòng cha mẹ...  Đau, mà không san sẻ cho ai được. Chỉ tự mình, cứ từng trải dần mà cảm nhận được thôi. Mạch trữ tình Tú Xương thường xuất hiện theo dạng thức ấy. Như bật lên bất ngờ từ một ngóc ngách tâm tư, có khi ngay giữa lúc đang cười mà nhận ra thì ứa nước mắt:

Bức sốt mà mình vẫn áo bông
Tưởng rằng ốm nặng hóa ra không
Một tuồng rách rưới con như bố

Thì đáng cười hay đáng khóc. Cả hai đều đáng. Trào phúng hay trữ tình trong thơ Tú Xương như anh em sinh đôi.
Bài thơ Áo bông che đầu như một hồi âm mờ gửi cố nhân xa nhưng sao lại dội lên một hòa âm trong trẻo, phiêu dạt và bao la trùng điệp thế:

Người đi Tam Đảo Ngũ Hồ
Kẻ về khóc trúc than ngô một mình 
Non non, nước nước, tình tình
Vì ai ngơ ngẩn cho mình ngẩn ngơ

Điều này chắc chỉ ông Tú biết. Mà có khi ông cũng chả biết. Thơ tự vận động trong tiềm thức. Tự đến và tự đi. Khởi thủy nó là hiện thực là áo bông che đầu nhưng kết thúc nó khóc trúc thương ngô như tình sử phi thực ở bên... Tàu! Người viết lẫn người đọc đều ngơ ngẩn ngẩn ngơ nhìn theo bóng chữ rất vu vơ và cũng rất thơ. Thơ của tình thế ấy.

Thơ Tú Xương ôm chứa khá rộng hiện thực cuộc sống thường ngày. Ông có năng khiếu phát hiện chất thơ nhanh như một nhà báo tìm ra tin nóng trong nhiệt độ của thường ngày. Rồi từ cái thực ấy ông mang ta vào một cõi xa, có khi xa hút, quay lại không thấy thực đâu. Ta đang cười cợt vui đời bỗng thành người nghĩ ngợi. Và lại hiểu cuộc đời cao (hay sâu) thêm một cấp.

Tú Xương là nhà thơ Việt Nam cường tráng nhất đầu thế kỷ XX. Ông cũng là nhà thơ cổ điển đầu tiên tung hoành trong đề tài thành thị thoải mái nhẹ nhàng như cá bơi trong nước. Chất thơ của Tú Xương là chất thơ trực tiếp, không cần một thứ trang sức mỹ lệ hóa nào. Sự kiện, nhân vật ngoài đời vào thẳng trang thơ. Thơ mà như phóng sự điều tra. Đọc ông như đọc nhật trình thời ấy. Ngoài thu nhận thẩm mỹ thơ, còn biết lắm việc đời. Chỉ những tài năng có cảm xúc mạnh, có hồn thơ thường trực mới có bút lực ấy. Có bài tưởng như Tú Xương lỡ mịệng mà nói thành thơ. Ngôn ngữ thơ ông là ngôn ngữ thường ngày, không điển cố, không Hán tự nhưng được dùng chính xác và đầy sáng tạo. Sức phổ cập của thơ Tú Xương do vậy rất lớn. Cùng với Nguyễn Khuyến và bạo hơn Nguyễn Khuyến, Tú Xương đã xóa đi cái ranh giới giữa bình dân với bác học của ngôn ngữ lẫn văn chương. 
(0) Bình luận
  • Họp lớp
    Tôi bước vào lớp, có lẽ tôi là người đến cuối cùng, bởi trong lớp đã kín gần hết chỗ ngồi, chỉ còn trống một chỗ ở cuối dãy bàn bên phải. Hơi ngượng vì đến muộn nên tôi ngần ngừ trước cửa mấy giây.
  • Sen quán
    Loay hoay mãi chị mới cởi nổi bộ khuy áo. Cái áo cánh nâu bà ngoại để lại. May sao áo của bà không chỉ vừa mà như muốn vẽ lại những đường cong đẹp nhất của chị. Chị là người Hà Nội. Mẹ không biết cụ tổ đến Hà Nội từ bao giờ mà chỉ biết và kể chuyện từ đời ông bà ngoại. Rằng ông ngoại từng là nhà buôn vải lụa còn bà là ca nương ca trù nổi tiếng ở đất kinh kỳ.
  • Một giấc mơ xa
    Vân nằm duỗi chân ở sofa, nghe đài mà hai con mắt cứ ríu lại. Jim và Coen vừa theo bố chúng ra ngoài. Ở thị trấn này, trẻ em và những chú cún luôn được thỏa thích dạo chơi. Ánh nắng của buổi sáng đẹp trời chiếu xuyên qua tấm rèm cửa khiến Vân không nỡ ngủ vùi. Cô sống cùng gia đình chồng ở một vùng phía đông Hà Lan, nơi mà cuối tuần nghe nói mình đi dạo là biết sắp được chở vào rừng. Sáng này nếu không thấy mệt trong người thì cũng đã…
  • Trên đỉnh gió
    Không lãng mạn như hình dung, chiếc tàu chở Lam từ bến cảng thành phố ra đảo chính là “tàu há mồm” có niên đại còn nhiều hơn tuổi của cô. Thủy thủ trên tàu lại càng không như cô vẫn thường tưởng tượng về những chàng lính hải quân đẹp trai, từng trải với trái tim nồng nàn và tâm hồn cực kì bay bổng.
  • Tàu xuôi ra Bắc
    Ba năm trước, tôi gặp Trang trên chuyến tàu mang số hiệu SE đang di chuyển từ miền Nam ra miền Bắc. Lúc đó, tôi ngồi đối diện với Trang ở toa ghế ngồi - toa thường dành cho người đi chặng ngắn. Trong toa xộc lên mùi thuốc lá, mùi dầu gió xanh, mùi bồ kết phảng phất từ mái tóc của mấy người đàn bà và mùi của vô số thứ hàng hóa trên sàn toa.
  • Những hòn đá
    Không ai biết tại sao những người lạ lại chuyển thẳng vào cư trú trong cái làng bẩn thỉu, gồ ghề những đá là đá và quanh năm gió quật. Vợ chồng người lạ nọ đã mua một lâu đài đổ nát nằm trên đồi, sừng sững ở đó từ thuở ấu thơ của họ, và nó thuộc về ngôi làng.
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
  • [Video] Sóng lụa làng nghề Vạn Phúc
    Là một trong những làng nghề thủ công ra đời sớm nhất vùng Đồng bằng sông Hồng cũng như cả nước, làng lụa Vạn Phúc (quận Hà Đông) là làng nghề dệt lụa tơ tằm nổi tiếng từ xa xưa. Nhiều mẫu hoa văn của lụa Vạn Phúc từng được chọn may quốc phục dưới các triều đại phong kiến. Ngày nay, ngoài việc gìn giữ, phát huy giá trị của nghề truyền thống qua các sản phẩm, làng lụa Vạn Phúc còn là điểm đến hấp dẫn của nhiều du khách trong nước và quốc tế.
  • Tọa đàm những vấn đề về kịch bản sân khấu hiện nay
    Với mong muốn tìm ra những nguyên nhân và giải pháp về vấn đề kịch bản sân khấu hiện nay, sáng 22/11, Hội Sân khấu Hà Nội tổ chức tọa đàm “Những vấn đề về kịch bản sân khấu” với sự tham gia của đông đảo hội viên trong hội.
  • [Podcast] Thu Hà Nội – Mùa của tình yêu và nỗi nhớ
    Bốn mùa, xuân, hạ, thu, đông của Hà Nội, mỗi mùa đều mang trong mình nét đẹp riêng bới hương, bởi sắc của mỗi mùa. Nhưng có lẽ, mùa thu vẫn là một mùa thật đặc biệt của Người Hà Nội. Mỗi độ thu về như gói gọn cả một Hà Nội cổ kính, trầm mặc, một Hà Nội thơ mộng và trữ tình. Chính bởi vẻ đẹp đó mà mùa thu đã trở thành nỗi nhớ cho những ai đã từng gắn bó với Hà Nội mà nay phải chia xa, là niềm ước ao một lần được “chạm vào” của nhiều du khách.
  • Triển lãm "Cộng đồng kiến tạo": Vinh danh những đóng góp giá trị cho xã hội
    Sáng 22/11, tại sân Bái Đường, Văn Miếu - Quốc Tử Giám đã diễn ra Triển lãm "Hành động vì cộng đồng" - Human Act Prize 2024 với chủ đề “Cộng đồng kiến tạo”.
  • Đồng chí Nguyễn Việt Phương giữ chức Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Thành ủy Hà Nội
    Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy Thanh Trì Nguyễn Việt Phương được điều động đến công tác tại Ủy ban Kiểm tra Thành ủy Hà Nội, giữ chức Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Thành ủy khóa XVII.
Đừng bỏ lỡ
Văn chương Việt Nam Những nhà thơ thế kỷ XX: Tú Xương trào phúng gặp trữ tình không hẹn trước
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO