Sau những năm tháng tuổi trẻ giàu khao khát, giàu hoài bão và mộng mơ đã kết tụ lại trong các tập thơ trước, tập thơ này, tác giả “Có thêm sâu lắng mùa màng/ Có thêm ầm ào ghềnh thác/ Có thêm những điều trăn trở” (Hành trang xanh). Và do đó muốn được tâm sự, muốn được sẻ chia, trước hết là với chính mình, với người thân, bạn bè gần gũi và với bạn đọc gần xa.
Tập thơ được chia làm ba phần với những câu thơ như lời đề tựa. Phần thứ nhất có thể coi là những cảm xúc, những chiêm nghiệm về cuộc sống, về lẽ đời. Phần thứ hai dành cho quê hương và phần thứ ba là về gia đình, tế bào quan trọng của xã hội. Tất nhiên, sự phân chia này cũng chỉ là mang tính quy ước, tương đối.
Dễ nhận thấy người viết thường có tâm trạng hoài vọng những gì của quá khứ, của những phút giây hiện tại và cả của những dự cảm lấp ló tương lai. Chắt chiu, gom góp dù ít ỏi thôi, nhưng luôn luôn là cần thiết. “Một chút se se/ Một chút hanh xưa/ Một chút mơ bay/ Chút chờ xa lơ/ Chút còn nhơ nhớ” (Thu đưa ta về). Từng trải hơn, do đó mà cũng chiêm nghiệm và hiểu biết hơn. Những cái biết chỉ để cho chắc chắn hơn, trầm tĩnh hơn khi nhìn đời, nhìn người: “Biết rơm rớm đã bắc cầu xuân xa/ Biết chênh chếch bóng làm quà ngồng dưa/ Biết thăm thẳm vực, thác mưa ngóng đò/ Biết chênh chao võng ru chờ tháng năm/ Biết tròn vành vạnh qua rằm khuyết đơn” (Cứ ngỡ chưa qua). Hiểu biết thêm, chiêm nghiệm thêm, nên thêm bâng khuâng, thêm băn khoăn, nghi vấn thường thấy ở người cao tuổi:
Bồi hồi riêng của ban mai
Vầng dương lối hẹn thêm ai cuối ngày?
Vui buồn thêm rộng vòng tay
Liệu còn thao thức canh chày đợi nhau?
(Cảm thức)
“Tri thiên mệnh” (Biết mệnh trời) rồi, lắm khi như là “lão giả an chi” (Người già yên thôi), chỉ mong một chữ an, một chữ nhàn:
Trăng thanh
Ánh vàng thau sóng bạc
Thơ thẩn
Lạc trong mình
Bờ bãi
Chơi vơi…
(Thanh tĩnh)
Là người nhạy cảm, nên người viết dễ tổn thương, dễ suy tư dù chỉ là một chút đổi thay nho nhỏ:
Hàng cau ai ngả đi rồi
Bỗng dưng rỗng cả khoảng trời bình yên
(Giọt xưa)
Hàng cau là bóng dáng của làng quê, cùng với bóng tre, cây đa, mái đình. Và không thể thiếu là vị cơm quê “Rưng rưng bát cơm quê thơm nghĩa cả hồn làng” (Từ làng).
Không ít bài thơ trong tập thơ là những day dứt, trăn trở trước thực tế cuộc sống luôn tìm được sự đồng tình, đồng vọng nơi bạn đọc.
Một phần quan trọng của tập thơ, tác giả dành cho quê hương, nơi sinh thành ở Yên Bái và cội nguồn ở Hà Nam. Con người nhà giáo, nhà thơ ấy mang nặng nghĩa tình vóc làng dáng quê. Sắc hương quê là một điều cao quý, thiêng liêng mà thiên đường dễ gì đã có?
Một “rặng tre làng thấp thoáng mảnh trăng”, một kỉ niệm ruộng đồng: “Ngực áo cồn cào vết bùn non/ Bùn thấu phận bùn/ Hương sen bồn chồn cánh đồng khao khát/ Ngấu chút bùn hoai chậm chiều nắng nhạt/ Tấm áo nhuộm bùn bát ngát đồng xanh” (Khúc giao mùa). Làng quê là nơi chốn đi về, là đối tượng để thi sĩ ngợi ca:
Người quê đã thắm nụ cười
Mồ hôi đã thấm bao đời đất quê
(Võng quê)
Những trai quê khỏe mạnh, hiền lành, hồn nhiên:
Năm tháng lo toan ân nghĩa từ làng
Thêm những chàng trai xếp hàng ra lính
Thêm những cuộc đời gian lao kháng chiến
Cốt giữ xóm làng năm tháng bình yên
(Sinh ra từ làng)
Những gái quê mộc mạc, chất phác với vẻ đẹp khỏe mạnh, đầy sức sống:
Người con gái tóc dài nhuộm thắm ban mai
Đánh thức cánh đồng ngô khoai trở giấc
Những vạt nắng đậu mềm cài lên mái tóc
Người đó ánh lên một nét diệu huyền
(Gái đồng quê)
Sinh ra từ làng là một bài thơ dài ca ngợi làng, đơn vị hành chính cũng là đơn vị tình cảm của những người sinh ra và trưởng thành ở nông thôn.
Văn Yên mảnh đất nghĩa tình không chỉ được nhắc đến một lần trong “Thời khắc Văn Yên”, “Những cánh chim xanh”. Văn Yên là “Mảnh đất sản sinh nghĩa tình, huyền tích”, là nơi “Khấp khởi chiêm bao ngày về” để cảm nhận, để thấm sâu và mang đi những đặc sắc văn hóa, để hòa nhập:
Mang theo điệu Khắp sơn khê
Mang theo ánh lửa đêm xòe vùng cao
Hòa vào chuông nhịp bản Dao
Sênh tiền Vũ nhạc chênh chao khèn bè
Văn Yên, cùng với “Yên Bái sông”, hồ Thác Bà, các địa danh khác của Yên Bái, làm thành niềm mến yêu, tự hào để thốt lên “Yên Bái ta”, “Yên Bái mình” thiết tha, kiêu hãnh. Mảnh đất Yên Bái đã nên tình nên nghĩa, nên nơi hò hẹn, nên chốn đi về của người viết. Ở nơi đó không thể thiếu những người bạn từ thuở thiếu thời, thuở tráng niên đã góp mồ hôi, công sức xây dựng và khi tuổi cao:
Ung dung lên bậc ông bà
Vui buồn tụ tập khề khà sớm khuya
(Bạn già)
Tác giả dành phần cuối của tập với nhan đề Tổ ấm tìm về để bày tỏ tình cảm gia đình với cha mẹ, anh chị em và những người thân thiết. Có 13 bài thơ dành cho chủ đề này. Tất cả đều thể hiện sự kính trọng các bậc sinh thành, sự gắn bó với những người thân, những người đã nâng đỡ vật chất và tinh thần cho người viết. Và người đọc được chứng kiến tình cảm sâu nặng, mộc mạc của một người con dành cho người cha liệt sĩ, thân sinh ra người bạn đời của tác giả trong ngày giỗ của người:
Bảy mươi tuổi đời bao vất vả lo toan
Chỉ mong xứng với vẹn toàn: con Liệt sĩ
Chỉ mong đẹp mộ phần nơi cha yên nghỉ
Thơm bát cơm quê, nhẹ bước cha về
(Ngày giỗ cha)
Chín đợi hay mười trông
Cứ âm thầm bõ công khó nhọc
Cứ đinh ninh đất không phụ công cấy cày chăm sóc
(Đồng vọng xanh ban mai)
Đó cũng có thể coi là niềm tâm sự của riêng người thơ Lê Văn Lộc trên cánh đồng chữ nghĩa thơ ca. Anh đã âm thầm lặng lẽ gieo trồng và đã thu hoạch 14 mùa thơ. Đây là mùa thu hoạch thứ mười lăm. Như niềm mong ước “chín đợi mười trông” của anh, kết quả của mùa gieo trồng này chính là tập thơ Đồng vọng ban mai xanh. Hi vọng Đồng vọng ban mai xanh sẽ nhận được nhiều đồng tình, đồng vọng từ bạn đọc.