Văn hóa – Di sản

Thánh Mẫu Quỳnh Hoa phận liễu chí tùng

Khúc Hồng Thiện 20/09/2025 07:19

Đền thờ Thánh Mẫu Quỳnh Hoa tọa lạc tại thôn Vĩnh Mộ, xã Thượng Phúc (Hà Nội) vì thế người dân nơi đây quen gọi là đền Vĩnh Mộ. Đền nằm giữa khuôn viên di tích, phía trước là sân rộng có hai cột kỳ đài, ao sen, khu vườn cây bốn mùa xanh mát; phía sau là chẩm, tương truyền là nơi công chúa Khúc Thị Ngọc hóa - tượng trưng đôi “mắt rồng” cân đối tiền hậu.

anh-den.jpg
Đền thờ Thánh Mẫu Quỳnh Hoa tại thôn Vĩnh Mộ, xã Thượng Phúc (Hà Nội).

Từ nhiều nguồn cứ liệu lịch sử, cả thành văn và dân gian cho thấy, Quỳnh Hoa Thánh Mẫu là một vị nhân thần, hóa thân của công chúa Khúc Thị Ngọc (con gái Tiên chúa Khúc Thừa Dụ), người đất Hồng Châu. Tương truyền, ngay từ thuở nhỏ Khúc Thị Ngọc đã sớm bộc lộ thiên tư thông minh, ý chí mạnh mẽ ẩn trong vẻ mảnh mai khuê các. Là tiểu thư con nhà gia thế nhưng nàng ham việc sông nước, đồng áng. Thời gian sống cùng phụ thân tại phủ Tống Bình, công chúa Quỳnh Hoa đã không ít lần được dự bàn việc quân trung, trách nhiệm hậu cần, đánh đuổi giặc phương Bắc. Sau khi Tiên chúa băng hà, Trung chúa Khúc Hạo thay cha trị vì đất nước, Quỳnh Hoa cũng dành toàn tâm toàn ý lo kế dân sinh.

Công chúa Khúc Thị Ngọc tự nguyện rời chốn cung vàng điện ngọc, lui về vùng nông thôn, phía Nam thành Đại La, sớm tối canh cửi tằm tang, giúp dân nghèo (khu vực Thường Tín ngày nay) khai hoang phục hóa vùng đất sình lầy thành ruộng vườn, làng mạc, chợ búa trù phú. Sách “Việt sử nói gì” chép: “Họ Khúc còn nổi bật lên một nhân vật lịch sử nữa là Công chúa Khúc Thị Ngọc. Bà là con gái Khúc Thừa Dụ, em gái Khúc Hạo, trợ thủ đắc lực của cha anh trong việc dựng nên và giữ vững nền tự chủ. Trong đấy có công lớn của bà trong việc khôi phục nền kinh tế đất nước như khuyến khích nông tang, tổ chức khai hoang, lập ấp, mở mang làng xóm vùng Tây Hồ, sông Tô, sông Nhuệ”.

Truyền thuyết dân gian kể rằng: Khi ở phủ Tống Bình, một hôm bà đi thuyền dạo chơi Tây Hồ, gặp mưa to, bèn vào chùa Trấn Quốc thỉnh chuông niệm Phật. Tiếng chuông ngân vang, bỗng phía Hồ Tây có con trâu vàng xuất hiện cúi đầu xin theo hầu. Quỳnh Hoa xuống thuyền, trâu vàng rẽ nước băng lên phía trước dẫn lối. Kỳ lạ thay, thuyền bà lướt tới đâu, thì lạch nước hóa thành sông (dòng Kim Ngưu bây giờ), bãi lầy thành đồng ruộng, làng xóm, chợ búa cũng theo đó mà trù phú. Đến lúc gặp một vùng nước trong biếc, bà hạ lệnh dừng thuyền, xuống tắm. Xong bà bước lên gò cao và hóa. Nơi bà tắm dân làng gọi là chẫm, nơi bà hóa nhân dân lập đền thờ, suy tôn Quỳnh Hoa Thánh Mẫu, quanh năm hương khói phụng thờ.
Không chỉ có truyền thuyết dân gian, theo một số tài liệu, công chúa Khúc Thị Ngọc được ghi nhận là một bậc mẫu nghi thiên hạ của người Việt, có mỹ tự còn lưu trong khám thờ. Bà từng được các Hoàng triều Lê Trung Hưng, triều Nguyễn sắc phong: “Dực Bảo Trung Hưng Linh Phù Khúc Thị Ngọc Công Phu Nhân Tôn Thần” (Sắc phong của vua Khải Định ngày 15/7 năm Khải Định thứ 9).
Hiện cũng tại di tích này vẫn còn lưu giữ ba đạo sắc phong của các vua triều Nguyễn (Thành Thái, Duy Tân, Khải Định), sắc phong cho Công chúa Khúc Thị Ngọc là bậc thần linh, càng về sau càng trân trọng và thêm nhiều mỹ tự, như: “Trinh uyển tôn thần” (Bà chúa tiết hạnh, thuần hậu, một vị thần đáng tôn kính). Sách “Họ Khúc trong lịch sử dân tộc - Góc nhìn nghệ thuật quân sự” (TS Khúc Minh Tuấn chủ biên) nhận định: “Hệ thống tín ngưỡng thờ Tam Khúc Chúa thuần Việt. Đặc biệt con gái của Khúc Thừa Dụ là Khúc Thị Ngọc là một trong mẫu nghi thiên hạ của người Việt, được chép trong điển thờ, được các hoàng đế triều Lê Trung Hưng, triều Nguyễn sắc phong: “Dực bảo trung hưng linh phù Khúc Thị Ngọc công phu nhân tôn thần”.

Một trong những sắc phong đời Nguyễn được dịch nghĩa như sau: Sắc cho thôn Vĩnh Mộ, huyện Thượng Phúc, tỉnh Hà Nội được phụng thờ vị thánh là Công phu nhân Khúc Thị Ngọc. Thánh đã nhiều lần tỏ rõ sự linh ứng. Thế nhưng, trở lại đây ngài vẫn chưa được dự phong. Nay đúng vào lúc (trẫm) làm việc phi thường, thừa tiếp mệnh sáng (của trời) thường tâm niệm công chúa của thần nên có thể sáng tỏ, phong thánh làm: Dực bảo trung hưng linh phù chi thần. Cho phép dân (thôn) được y như cũ phụng thờ thần. Thần hãy giúp đỡ, bảo vệ lê dân của trẫm. Kính thay. Ngày 18 tháng 11 năm Thành Thái nguyên niên (1889).

Năm 1938, để ghi công đức, sự nghiệp của bà, dân chúng quanh vùng đã trùng tu ngôi đền, đồng thời Hội Tư văn toàn khu đã làm bài minh, cùng một bài thơ chữ Hán khắc lên cuốn thư treo chính điện. Bài thơ dịch ra chữ Quốc âm như sau:

Lê triều truyền thánh tích
Công chúa tối hiển linh
Sắc đẹp trùm thiên hạ
Duy nhất lòng trung trinh
Muôn năm lừng thắng địa
Ba xã nổi danh thiêng
Xa gần trọng công đức
Phúc tinh sáng một miền.

Đến năm 1995, ngôi đền được tôn tạo với ba gian lợp ngói và một hậu cung. Trên bệ thờ có tượng Thánh Mẫu tĩnh tọa tòa sen trong khám cổ. Ngày 4/2/2003, tại Quyết định số 158/QĐ-UB, UBND tỉnh Hà Tây cũ (nay là Hà Nội) công nhận đền thờ Công chúa Khúc Thị Ngọc là di tích lịch sử văn hóa cần được bảo vệ lâu dài. Giai đoạn 2018-2019, di tích thêm một lần đại trùng tu được gia đình ông Khúc Minh Tuấn và Hội đồng Gia tộc họ Khúc Việt Nam phối hợp địa phương tiến hành.

Những năm gần đây, Hội đồng Gia tộc họ Khúc Việt Nam đã thường xuyên phối hợp với chính quyền và người dân địa phương, đầu tư trùng tu tôn tạo ngôi đền. Song, do nguồn lực của cả địa phương và huy động xã hội hóa còn nhiều hạn chế, nên chưa làm được quy hoạch tổng thể, còn nhiều hạng mục chưa được sửa chữa, tôn tạo, xây dựng.

Bên cạnh kiến trúc và một số cổ vật, di tích còn giữ được lễ hội truyền thống được tổ chức hằng năm vào ngày 15 tháng 3 âm lịch - ngày giỗ Thánh Mẫu. Quy mô lớn nhỏ tùy theo quy định hội chính hay hội lệ nhưng vẫn giữ được nếp xưa, tiến hành theo nghi thức truyền thống, vừa nghiêm cẩn, linh thiêng, cầu mong mưa thuận gió hòa, đất nước thái bình, nhân khang vật thịnh.

Không chỉ tại Vĩnh Mộ, một số địa phương khác cũng lập đền thờ công chúa Khúc Thị Ngọc. Việc phụng thờ Thánh Mẫu Quỳnh Hoa góp phần gìn giữ giá trị truyền thống, giáo dục đạo lý uống nước nhớ nguồn, tri ân công đức tổ tiên./.

Bài liên quan
  • Nhà thờ họ Giang Nguyên ở làng Triều Khúc
    Làng Triều Khúc (nay thuộc phường Thanh Liệt, Hà Nội) xưa có tên là Trang Khúc Giang. Một thời làng có tên gọi là Đơ Đồng, rồi khi có nghề dệt Thao gọi là làng Đơ Thao. Dòng họ Giang Nguyên ở Triều Khúc là một họ đặc biệt, chỉ tồn tại duy nhất tại vùng đất này. Theo gia phả, họ Giang Nguyên đến định cư tại Triều Khúc từ thế kỷ thứ VI, thời kỳ nội thuộc nhà Đường. Khi ấy, cùng với các họ Triệu, Bùi, Hoàng và Nguyễn, họ Giang là một trong năm dòng họ đầu tiên đến lập ấp ở khu vực giếng Liên (nay là khuôn viên Học viện An ninh Nhân dân).
(0) Bình luận
  • Di sản văn hóa Hồ Chí Minh trong lòng nhân dân TP Huế
    Nhân kỷ niệm 45 năm thành lập, Bảo tàng Hồ Chí Minh Thành phố Huế tổ chức Hội thảo “Di sản văn hóa Hồ Chí Minh trong lòng nhân dân Thành phố Huế”.
  • Công nhận 12 cây cổ thụ tại Bắc Ninh là cây di sản Việt Nam
    Sự kiện công nhận quần thể 11 cây duối và 1 cây gòn có tuổi đời từ 200-500 năm là Cây Di sản Việt Nam không chỉ ghi nhận giá trị lịch sử, văn hóa, môi trường mà còn là trách nhiệm của chính quyền và nhân dân trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị quý báu này.
  • Nền tảng vững chắc để di sản văn hóa dân tộc trường tồn
    Hơn 4.000 năm lịch sử, Việt Nam có kho tàng di sản văn hóa vật thể và phi vật thể phong phú và đa dạng. Để di sản văn hóa của dân tộc trường tồn, phát huy các giá trị trong đời sống đương đại, trong mọi thời kỳ và nhất là những năm gần đây, chúng ta đã có một hệ thống văn bản các chính sách, pháp luật về di sản văn hóa ngày càng hoàn thiện hơn.
  • Chảy mãi mạch nguồn gìn giữ, phát triển di sản văn hóa Việt Nam
    Suốt quá trình xây dựng, phát triển đất nước Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn coi trọng, quan tâm và xác định di sản văn hóa là bản sắc của văn hóa dân tộc, là cơ sở để xây dựng nền văn hóa mới, con người mới, là một nguồn lực để xây dựng và phát triển đất nước.
  • Giao lưu, trình diễn nghi lễ và trò chơi kéo co tại đền Trấn Vũ
    Trong khuôn khổ Festival Thăng Long - Hà Nội 2025, sáng 16/11, tại đền Trấn Vũ (phường Long Biên, thành phố Hà Nội) đã diễn ra chương trình giao lưu, trình diễn nghi lễ và trò chơi kéo co. Chương trình do Sở Văn hóa và Thể thao TP Hà Nội phối hợp với UBND phường Long Biên và Hội Di sản Văn hóa Việt Nam tổ chức, nhân dịp kỷ niệm 10 năm nghi lễ và trò chơi kéo co được UNESCO ghi danh là di sản văn hóa.
  • Tri thức nấu cỗ Bát Tràng là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia
    Tri thức nấu cỗ Bát Tràng gắn liền với lịch sử hơn 500 năm của làng gốm, là biểu hiện sống động của văn hóa lễ nghi và tinh thần cộng đồng. Mâm cỗ không chỉ là món ăn, mà là nghệ thuật tổ chức ẩm thực, phản ánh thẩm mỹ, triết lý âm - dương, ngũ hành trong đời sống người Việt.
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
Đừng bỏ lỡ
Thánh Mẫu Quỳnh Hoa phận liễu chí tùng
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO