Những người “giữ lửa” cho nghề làm tương ở Cự Đà

Minh Huệ/NSHN| 01/06/2019 18:14

Nằm ven sông Nhuệ, cách trung tâm thành phố Hà Nội gần 20 km, làng Cự Đà (xã Cự Khê, huyện Thanh Oai) được nhiều người biết đến bởi nơi đây còn lưu giữ được nhiều ngôi nhà cổ, có nghề làm miến dong riềng và đặc biệt nổi tiếng với nghề làm tương nếp.

Hương vị riêng

Nghề làm tương ở Cự Đà gắn liền với sự hình thành và phát triển của làng, tồn tại khoảng 4-5 trăm năm nay. Theo các cụ cao tuổi ở làng, tương là món nước chấm dân dã, gần gũi với người dân làng quê Việt Nam; chum tương, vại cà là hình ảnh thân thuộc gắn bó với mỗi gia đình ở nông thôn. Cùng với tương Bần ở tỉnh Hải Dương, tương Cự Đà nổi tiếng ở miền Bắc nhờ vị ngọt thơm riêng có của nó.
Những người “giữ lửa” cho nghề làm tương ở Cự Đà
Công đoạn đóng chai tương thành phẩm tại Cơ sở sản xuất tương nếp Trọng Tình, làng Cự Đà

Để trở thành món nước chấm nổi tiếng, những người làm tương ở làng Cự Đà đã phải dày công tìm tòi, sáng tạo và lưu truyền bí quyết từ đời này sang đời khác. Bà Vũ Thị Chắt - người có thâm niên trong nghề làm tương cho biết, quy trình làm tương ở Cự Đà có nhiều nét khác so với quy trình làm tương Bần. Để có được một lít tương thành phẩm, phải trải qua khá nhiều công đoạn, trong đó công đoạn chọn lọc nguyên liệu là gạo nếp và đậu tương ở Cự Đà khá kỳ công: Gạo nếp phải là nếp cái hoa vàng; đậu tương phải đều, chắc hạt... Sau công đoạn chọn nguyên liệu, gạo nếp sẽ được vo, đãi sạch rồi đồ xôi, đem phơi, vo rời, để lên mốc. Khi đã lên mốc, lại đem đãi, chiêu nước sạch sẽ trước khi đem ủ chờ cho mốc chín.

Với đậu tương, trước khi rang, phải ngâm 2 tiếng, rồi để ráo nước. Khi rang đậu phải đều tay, không được để cháy hoặc sống. Sau khi đậu được rang chín, cho vào xay, sau đó nấu chín rồi cho vào chum, vại chờ đủ ngày lại đem xay (ngả) với mốc (xôi nếp đã được ủ chín). Nước đậu ủ phải để lên men tự nhiên, tức là phần lớn phụ thuộc vào thời tiết, để cho ra một mẻ tương thơm ngon. 

Bà Vũ Thị Chắt chia sẻ, tuy vẫn là đậu tương, gạo nếp, muối, nhưng bí quyết làm nên món tương ngon của làng nằm ở tỷ lệ xay trộn. Vị tương ngọt hay không là do mốc quyết định, còn vị thơm lại do nước đậu. Trung bình, phải mất 2 tháng mới có được một mẻ tương thành phẩm. Khi đã thành phẩm, tương Cự Đà có màu vàng tươi và vị ngọt thơm đặc trưng.

Không để nghề mai một

Năm 2007, sau khi được UBND tỉnh Hà Tây (cũ) công nhận là làng nghề truyền thống chế biến nông sản, những hộ sản xuất tương ở Cự Đà đã tiến hành xây dựng và đăng ký nhãn hiệu tập thể: “Tương nếp Cự Đà”. Đây chính là mốc đánh dấu sự phát triển của nghề làm tương ở làng. Tuy nhiên, theo Trưởng thôn Cự Đà Vũ Văn Tuấn, mấy năm gần đây, đất nông nghiệp ở Cự Đà được thu hồi để xây dựng khu đô thị nên nhiều gia đình trong làng có cuộc sống khá giả hơn trước nhờ tiền đền bù, hỗ trợ thu hồi đất. Từ đó, rất nhiều hộ trong làng đang làm tương đã chuyển sang làm nghề khác có thu nhập cao hơn. Hiện nay, trong làng chỉ còn 6 hộ vẫn duy trì đều đặn nghề làm tương. 

Là thế hệ thứ tư trong gia đình làm tương có tiếng ở làng Cự Đà, anh Đinh Công Thể, chủ cơ sở sản xuất tương Trọng Tình cho biết, tuy nghề làm tương không cho thu nhập cao như một số nghề khác, nhưng bù lại, gia đình anh có thu nhập ổn định và không phải chịu nhiều rủi ro. Hiện nay, một số công đoạn nặng nhọc trong quy trình làm tương đã được cơ giới hoá như: Đồ xôi, rang đậu, xay tương… nên người làm nghề không còn vất vả như trước. 

“Nhờ có nghề này, tình cảm giữa các thành viên trong gia đình tôi càng thêm gắn kết hơn, biết thương yêu, biết đùm bọc và chia sẻ, có thời gian gần gũi, chăm sóc nhau nhiều hơn. Hằng ngày, gia đình tôi mỗi người một việc, ai nấy đều vui vẻ. Ông bà nội tôi năm nay gần 90 tuổi vẫn đỡ đần con cháu dán tem nhãn; bố mẹ tôi thì đảm nhận việc đóng chai… Đây là lý do chính để gia đình tôi quyết tâm duy trì nghề làm tương”, anh Đinh Công Thể bộc bạch.
Những người “giữ lửa” cho nghề làm tương ở Cự Đà
Gần 90 tuổi, cụ Đinh Văn Tình (cơ sở sản xuất tương nếp Trọng Tình) vẫn đỡ đần con cháu việc dán tem nhãn lên sản phẩm tương của gia đình

Cũng như gia đình anh Đinh Công Thể, các hộ làm tương còn lại trong làng Cự Đà đều rất tự hào về nghề truyền thống của quê hương và quyết tâm giữ nghề. Bởi họ đều có chung một nhận định: Khi đời sống của các gia đình càng ngày càng sung túc hơn, có thể món tương không còn là món nước chấm chủ đạo trong các bữa cơm của mỗi nhà, nhưng chắc chắn, nó không thể mất “chỗ đứng” trong khẩu vị của người Việt. Có một số món ăn, nếu thiếu tương, thì coi như mất hẳn vị ngon đặc trưng, như: Cá kho, đậu kho, thịt dê tái, thịt bê tái, vó bò… Vì vậy, nhu cầu tiêu thụ món nước chấm này trên thị trường, nhất là tại các đô thị lớn như Hà Nội, sẽ khó giảm, nghề làm tương vẫn có cơ hội phát triển.

Mặc dù là nghề chế biến nông sản, nhưng sản xuất tương gần như không gây ô nhiễm môi trường, bởi quá trình sản xuất ít tạo ra chất thải. Do đó, có thể coi nghề làm tương là nghề sản xuất bền vững, thân thiện với môi trường. Bên cạnh đó, tương là loại thực phẩm có lợi cho sức khỏe. Nhờ chú trọng gìn giữ hương vị, bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm, nhiều năm nay, “tương nếp Cự Đà” không chỉ được tiêu thụ tại Hà Nội, các tỉnh miền Bắc, mà đã đến với một số tỉnh miền Trung và miền Nam. Bên cạnh các cửa hàng giới thiệu sản phẩm, đại lý bán hàng, tương nếp Cự Đà đã có mặt trong các siêu thị… Những yếu tố đó giúp nghề làm tương ở Cự Đà không dễ bị mai một.
(0) Bình luận
  • Ô Quan Chưởng - Cửa ô cuối cùng của Hà Nội
    Cửa Ô Quan Chưởng nằm ở phía Đông thành Thăng Long xưa, hiện nay thuộc phường Đồng Xuân, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Đây là một trong những cửa ô quan trọng của thành Thăng Long còn sót lại cho đến ngày nay. Chứng kiến biết bao biến đổi thăng trầm của Thủ đô, giữa phố phường Hà Nội nhộn nhịp hôm nay, Ô Quan Chưởng vẫn sừng sững uy nghiêm, khoác lên mình vẻ đẹp cổ kính, bình yên...
  • Bảo tàng Mỹ thuật ở giữa làng quê (huyện Ba Vì)
    Xứ Đoài là một vùng đất tối cổ - vùng địa văn hoá, địa thi hoạ - nơi mà con người có thể trải nghiệm đời mình trong hệ sinh thái tự nhiên của vùng đất, đi qua những truyền thuyết, cổ tích, để từ đó tạo nên tâm tính, giọng nói đặc trưng của con người xứ Đoài. Nắng và gió, núi và sông xứ Đoài đã gợi cảm hứng sáng tác cho một Tản Đà, một Quang Dũng và nhiều thi nhân, hoạ sĩ: từ Tô Ngọc Vân, Nguyễn Gia Trí đến Sĩ Tốt, Nguyễn Tiến Chung, Nguyễn Tư Nghiêm, Nguyễn Sáng... và những thế hệ văn nghệ sĩ sau này, ở họ đều có những sáng tác xuất sắc về xứ Đoài.
  • Bảo tàng Chiến sĩ cách mạng bị địch bắt tù đày (huyện Phú Xuyên)
    Đi khắp các vùng miền của Tổ quốc, những cựu tù binh Phú Quốc đã sưu tầm kỷ vật, di vật, tranh ảnh có liên quan đến các nhà tù trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược mà đồng đội và các ông đã trải qua. Hơn 20 năm kiếm tìm và góp nhặt, Bảo tàng Chiến sĩ cách mạng bị địch bắt tù đày, do chính những người cựu tù năm xưa thành lập là những minh chứng chân thực về một thời oanh liệt và hào hùng của dân tộc.
  • Bảo tàng Quê hương phong trào chiếc gậy Trường Sơn (huyệnỨng Hoà)
    Hoà Xá là một làng quê nằm sát bờ tả sông Đáy, thuộc vùng ven chiêm trũng Khu Cháy. Nơi đây sớm có phong trào cách mạng ngay từ những năm 1930, là hậu phương trung thành của cuộc kháng chiến chống Pháp. Trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Hòa Xá được xem là quê hương của phong trào động viên thanh niên lên đường “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” và câu chuyện huyền thoại “chiếc gậy Trường Sơn”.
  • Khu Cháy, Bảo tàng Khu Cháy - một địa chỉ đỏ về truyền thống đấu tranh cách mạng ở Ứng Hoà, Phú Xuyên
    “Khu Cháy” là thuật ngữ để nói về một khu du kích trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp gồm 22 xã ở phía nam huyện Ứng Hoà và tây huyện Phú Xuyên, Hà Nội.
  • Bảo tàng Tổng cục II (quận Hoàng Mai)
    Toạ lạc tại số 322 đường Lê Trọng Tấn, quận Hoàng Mai, Hà Nội trên khuôn viên rộng 3.500m2, gồm 2 tầng nhà và phần trưng bày ngoài trời, Bảo tàng Tổng cục II hiện lưu giữ 5.830 hiện vật, trong đó có nhiều hiện vật quý hiếm gắn liền với cuộc đời hoạt động của nhiều chiến sĩ tình báo xuất sắc của Quân đội nhân dân Việt Nam. Với chức năng phục vụ công tác nghiên cứu, tham quan học tập, giáo dục truyền thống, Bảo tàng Tổng cục II chính thức được Bộ Văn hoá - Thông tin công nhận nằm trong hệ thống các bảo tàng cấp 2 toàn quân.
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
  • [Video] Sóng lụa làng nghề Vạn Phúc
    Là một trong những làng nghề thủ công ra đời sớm nhất vùng Đồng bằng sông Hồng cũng như cả nước, làng lụa Vạn Phúc (quận Hà Đông) là làng nghề dệt lụa tơ tằm nổi tiếng từ xa xưa. Nhiều mẫu hoa văn của lụa Vạn Phúc từng được chọn may quốc phục dưới các triều đại phong kiến. Ngày nay, ngoài việc gìn giữ, phát huy giá trị của nghề truyền thống qua các sản phẩm, làng lụa Vạn Phúc còn là điểm đến hấp dẫn của nhiều du khách trong nước và quốc tế.
  • Tọa đàm những vấn đề về kịch bản sân khấu hiện nay
    Với mong muốn tìm ra những nguyên nhân và giải pháp về vấn đề kịch bản sân khấu hiện nay, sáng 22/11, Hội Sân khấu Hà Nội tổ chức tọa đàm “Những vấn đề về kịch bản sân khấu” với sự tham gia của đông đảo hội viên trong hội.
  • [Podcast] Thu Hà Nội – Mùa của tình yêu và nỗi nhớ
    Bốn mùa, xuân, hạ, thu, đông của Hà Nội, mỗi mùa đều mang trong mình nét đẹp riêng bới hương, bởi sắc của mỗi mùa. Nhưng có lẽ, mùa thu vẫn là một mùa thật đặc biệt của Người Hà Nội. Mỗi độ thu về như gói gọn cả một Hà Nội cổ kính, trầm mặc, một Hà Nội thơ mộng và trữ tình. Chính bởi vẻ đẹp đó mà mùa thu đã trở thành nỗi nhớ cho những ai đã từng gắn bó với Hà Nội mà nay phải chia xa, là niềm ước ao một lần được “chạm vào” của nhiều du khách.
  • Triển lãm "Cộng đồng kiến tạo": Vinh danh những đóng góp giá trị cho xã hội
    Sáng 22/11, tại sân Bái Đường, Văn Miếu - Quốc Tử Giám đã diễn ra Triển lãm "Hành động vì cộng đồng" - Human Act Prize 2024 với chủ đề “Cộng đồng kiến tạo”.
  • Đồng chí Nguyễn Việt Phương giữ chức Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Thành ủy Hà Nội
    Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy Thanh Trì Nguyễn Việt Phương được điều động đến công tác tại Ủy ban Kiểm tra Thành ủy Hà Nội, giữ chức Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Thành ủy khóa XVII.
Đừng bỏ lỡ
Những người “giữ lửa” cho nghề làm tương ở Cự Đà
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO