Lễ tắm tượng nhị vị ở chùa Đông Phù
Vào đời Lý Thánh Tông (1054 - 1072) hoàng hậu sinh đôi được hai công chúa, chị là Từ Thục và em là Từ Huy. Lớn lên, cả hai công chúa sớm giác ngộ cảnh vô thường nên bèn xin vua cha cho xuất gia tu hành. Bị vua khước từ, hai công chúa lén bỏ hoàng cung về tu ở chùa Long Hưng, nay thuộc thôn Đông Phù, xã Đông Mỹ, huyện Thanh Trì).

Vua cho người tìm và bắt hoàn tục nhưng hai công chúa không nghe. Vua sai quan quân đốt chùa để ép phải về, hai công chúa lại trốn đến Trúc Lĩnh (nay thuộc thôn Tự Khoát, xã Ngũ Hiệp, huyện Thanh Trì ), cách chùa Long Hưng độ 3 ki lô mét lập am tu hành. Thấy hai con thực lòng quy y Phật pháp, vua cảm kích cho xuất tiền kho sửa lại chùa Long Hưng và đặt tên là “Hưng Long tự”. Vua lại cho xây trên đỉnh núi Trúc một ngôi chùa mới đặt tên là “Hưng Phúc tự”.
Lại nói, khi tu hành tại chùa Đông Phù, thấy dân thôn trong vùng còn nghèo khó, hai bà đã xin vua cấp tiền để dân khai khẩn 1300 mẫu ruộng cấy lúa, trồng dâu. Trải thời gian, vùng đất rộng lớn đã phát triển thành nhiều thôn làng và mỗi làng lại có một nghề riêng: Làng Đông Phù làm bún đậu, buôn bán thuốc lào; làng Tranh Khúc làm bánh chưng, bánh dày, bánh gai; làng Mỹ Ả đan đó; làng Tự Khoát đan thuyền nan, đan thúng, rổ rá… Nhớ ơn hai bà, nhân dân các làng Đông Phù, Tự Khoát, Ninh Xá đều dựng chùa, đền và tạc tượng thờ. Trong đời sống hằng ngày, nhân dân trong vùng kiêng húy không gọi tên hai bà mà chỉ gọi là Nhị vị Bồ tát (mỹ tự trong sắc phong).
Trải mấy chục năm, đạo hạnh đã đạt độ viên mãn, khi tuổi đã cao, nhị vị sư tổ cho dựng am dưới lòng đất bằng gỗ thông trên cánh đồng Liên Hoa của làng Ninh Xá (tục gọi làng Tè), xã Ninh Sở, huyện Thường Tín tiếp tục tu hành.
Sau 100 ngày thiền định, hai công chúa cùng hai thị tỳ đã hóa vào lúc sao Mai xuất hiện ngày rằm tháng Ba năm Ất Hợi (1095), đời vua Lý Nhân Tông. Theo di chúc, dân làng Tè ra lấp cửa lăng trước nên được giữ việc thủ lăng và được cấp 10 mẫu 5 sào ruộng hương hỏa. Làng còn được miễn phu phen tạp dịch. Lệ này giữ đến thời vua Gia Long.
Tại chùa Hưng Long, một dãy nhà ngang song song với tiền đường, tiếp giáp hai dãy tả vu, hữu vu là cung thờ Nhị Vị. Tượng Nhị Vị được đặt trong khám chính giữa, cửa cung thường xuyên đóng, chỉ khi tế lễ mới mở. Ở hai bên có hai khám độc lập, thấp hơn khám Nhị Vị bên trong đặt tượng hai bà hầu. Tượng hai bà hầu được tạo vào thế kỷ 18, nét chạm mềm mại uyển chuyển. Chùa Đông Phù còn giữ được 17 sắc phong của triều Lê và Nguyễn, phong cho Nhị Vị là Đại Bồ tát (Lý Từ Thục, Lý Từ Huy); hai Thượng đẳng thần (Quỳnh Hoa, Quế Hoa).
Từ ngày Hai Bà mất, cứ 5 năm một lần, dân 10 làng lại mở hội lớn. Mở đầu là lễ rước nước trên sông Nhị. Các chủ thuyền được chọn đều tự nguyện, gia đình phải song toàn, ăn ở phúc hậu và ngay từ ngày hôm trước đã đến lễ chùa Tranh Khúc xin lễ Phật và đóng góp công đức. Sáng sớm ngày 14 tháng Ba, đoàn rước đại diện 10 làng tập trung ở chùa Hưng Long, rồi đến miếu Bóng làng Tranh Khúc, xã Duyên Hà lễ Thủy thần. Một ông thầy cúng đọc sớ để xin Hà Bá rước nước sông về chùa. Đoàn rước có từ 5 đến 7 chiếc thuyền.
Khi đoàn thuyền xuôi dòng đến hết địa phận làng Tranh Khúc thì quay ngược dòng sông, bái yết miếu Bóng rồi đi hết làng Văn Uyên ở thượng lưu, bơi thuyền ra giữa sông. Cụ chủ tế đặt một cái vòng tròn uốn bằng cây song, đường kính 90cm, quanh vòng tròn quấn giấy trang kim và chỉ được múc nước phía trong vòng tròn đó. Mở đầu, cụ múc hai gáo nước đổ vào mỗi chóe một gáo để tráng rồi đổ ra lòng thuyền để chủ thuyền lấy lộc. Sau đó, cứ đánh một tiếng trống, cụ lại múc một gáo nước và đổ vào mỗi chóe 9 gáo vì theo người xưa, vía của nữ là 9 nên hai vị cộng lại là 18.
Trong khi cụ chủ tế cẩn trọng múc từng gáo nước thì đội bát âm cử nhạc, đội múa rồng và múa sư tử đánh trống và uốn lượn theo thuyền, các già niệm Phật, các thuyền còn lại bơi lượn vòng quanh. Trên thuyền tải mã, một cụ bà rắc xuống sông vàng thoi trắng, tiền hoa và quần áo chúng sinh.
Khi đoàn rước nước về đến chùa thì vị sư ni trụ trì cùng hai lão bà đã được dân làng bầu chọn vào cung Nhị vị làm lễ bao sái. Nước được múc từ chóe ra pha với nước ngũ vị hương bao sái tượng Nhị vị và hai Chầu Bà, sau dùng khăn đỏ lau và phong áo mới.
Trong suốt thời gian tắm tượng, ở ngoài sân, có múa rồng và biểu diễn võ. Tại tòa tam bảo, các nhà sư làm lễ cúng dường, tụng kinh và diễu ba vòng từ gian chính qua hai bên giải vũ, rồi quay về nơi xuất phát.
Sau tắm tượng, lúc các nhà sư và thầy cúng làm lễ yên vị thì các hoạt động này cũng chấm dứt.
Sở dĩ có hai hoạt động đan xen, vì theo dân làng, hai công chúa tu hành từ nhỏ nên mọi việc liên quan đến bao sái cung cấm và tượng thờ đều phải kín đáo và nghiêm cẩn nên có thêm phần hội ở sân chùa nhằm thu hút mọi người để tránh sự tò mò; những người trực tiếp bao sái tượng Nhị Vị đều là nữ.
Sáng ngày rằm tháng Ba, đoàn rước 9 làng tập trung tại chùa Nhót để rước về lăng Liên Hoa. Hai kiệu võng rước Nhị vị, trước kiệu có một thanh nữ vác biển gỗ sơn son thếp vàng khắc bốn chữ: “Lý triều đế nữ”. Trong đoàn rước, làng Tranh Khúc bầy trên hương án bánh dày cỡ lớn, bao quanh là 9 bánh dày nhỏ. Mỗi bánh tượng trưng cho một làng. Trước đây, làng Đam Uyên, làng Tranh Khúc có nghề ươm tơ dệt lụa nên mỗi bánh đều được bọc trong lụa nên bảo quản được lâu.
Ngoài ra, vào hội Thánh Đản mồng 6 tháng Hai ở đền Ninh Xá có bánh dầy, chè kho, oản đường... và đặc biệt có trà tế thay cho rượu và nước cúng. Trà tế được chưng cất công phu từ 12 vị thuốc, có thang với gừng.
***
Hội chùa Nhót diễn ra trên một không gian rộng lớn, từ xa xưa đã trở thành hội vùng. Các nhà nghiên cứu Hà Nội cho hay, chỉ có các vùng đất rất cổ mới hội chùa. Hai công chúa Lý Từ Thục và Lý Từ Huy do tu luyện thành quả, có công đức với dân đã trở thành Phật Bồ tát, đồng thời Hai Bà còn là phúc thần của các làng trên. Việc hai công chúa đời Lý thu thần nhập định trong am dưới lòng đất cũng là một hiện tượng độc đáo. Các nhà khảo cổ nêu giả thiết, đây có thể là một kiểu tượng táng của Việt Nam (kiểu tượng táng ở chùa Đậu, huyện Thường Tín là một cách). Giờ đây, cuộc sống đã không ngừng đổi thay nhưng hội chùa Nhót 5 năm một lần vẫn diễn ra theo nghi thức xưa, thu hút đông đảo du khách đến tham dự càng tăng thêm sức hấp dẫn của mảnh đất lịch sử. Đông Phù là quê hương của Huệ Sinh Lâm Khu, một cao tăng triều Lý, đời vua Lý Thánh Tông được phong Tả nhai Đô tăng thống, ngang với tước hầu. Năm 1930, Đông Phù thành lập Chi bộ Cộng sản đầu tiên ở ngoại thành Hà Nội; ngày 18/8/1945, nhân dân trong vùng đã tập trung tại tam quan chùa Nhót để cướp lỵ sở huyện Thanh Trì./.