Kim Quan - dấu ấn ''cửa vàng''

HNM| 18/01/2022 08:35

Làng Kim Quan (cửa vàng) nay thuộc phường Việt Hưng (quận Long Biên), vài trăm năm trước là một thiết chế văn hóa và luôn được bảo lưu trong tình trạng “đóng” sau lũy tre làng. Sau 19 năm thành lập quận Long Biên, “cánh cửa” ấy được mở ra để đón nhận “làn gió mới”. Tuy vậy, để Kim Quan hội nhập, phát triển một cách vững vàng thì cần nghiên cứu giá trị, đánh giá thực trạng cụm di tích lịch sử - văn hóa đình, chùa, miếu Kim Quan, từ đó có biện pháp bảo tồn tương xứng.

Kim Quan - dấu ấn ''cửa vàng''
Đình Kim Quan.

Dấu tích làng cổ Kim Quan

Theo sách "Khâm định Việt sử thông giám cương mục" của Quốc sử quán triều Nguyễn, sở Kim Quan đã có từ thời Lê Thánh Tông (1460 - 1496). Kim Quan vốn là một vùng đầm lầy, tiếp giáp với Lệ Mật, Hoa Lâm, Hoa Am (để tránh kỵ húy mẹ vua Thiệu Trị là bà Nguyễn Thị Hoa nên năm 1841, Hoa Lâm của Gia Lâm đổi thành Trường Lâm, Hoa Lâm của Đông Ngàn đổi là Mai Lâm, Hoa Am đổi thành Thanh Am...).

Kim Quan liền kề với Lệ Mật, chịu chi phối bởi con sông Nghĩa Trụ (còn gọi là sông Cầu Bây, Cầu Chùa, Đào Xuyên). Con mương chạy song song với đường Đoàn Khuê hiện nay chính là đoạn sông Nghĩa Trụ xưa. Sông Nghĩa Trụ là chi lưu của sông Hồng (đoạn đầu ở chỗ công trình thủy lợi Bắc Hưng Hải) và nhập vào sông Thiên Đức. Theo truyền thuyết, hoàng tử Linh Lang sau khi đánh lui quân giặc rồi qua đời đã “chảy trôi” vào vùng đất thấp và được dân làng nhiều nơi, trong đó có Kim Quan đón nhận, tôn thờ làm Thành hoàng làng, với tư cách là thần chống lụt hay thần “tiêu thoát nước”.

Kim Quan cũng nằm kề với sông Thiên Đức, xa hơn một chút là sông Hồng ở đoạn ngã ba Mỏm Soi (Ngọc Thụy). Các con sông này nhiều lần gây lũ lụt. Ngay trong thần tích của làng Kim Quan cũng ghi lại: “Đại loại truy chép lại Thần tích và linh ứng của Thần rằng nghe lời truyền lại là nước sông Nhị dâng cao vỡ đê, tràn vào các xã của huyện Đông Ngàn gồm xã Chiêm Trạch, xã Phúc Lộc, xã Uy Nỗ, làm thành vực sâu tục gọi là vực Đáy. Nước lũ tràn xuống đầm lớn tục gọi là Đầm Dài ở xã Hoa Am (huyện Gia Lâm), tiếp giáp địa giới bản sở”. Trên thực tế, cánh đồng Kim Quan còn nhiều dấu tích vực xoáy do vỡ đê. Trụ sở quận Long Biên, ngôi miếu Kim Quan và hồ phía trước ngày nay là khu vực xoáy xưa kia, đã được san lấp, quy hoạch kể từ khi thành lập quận Long Biên.

Dấu ấn văn hóa trong hệ thống di tích

Như vậy, Kim Quan nằm trong địa thế gắn với sông nước. Người dân nơi đây đã chung đúc mở mang và phát triển làng quê thành một kho tàng quý giá được bảo vệ bởi “cửa vàng” - Kim Quan. Bởi luôn chịu tác động của sông nước nên họ đã ứng xử và tạo nên những giá trị riêng theo tinh thần chống lũ lụt. Những giá trị đó được thể hiện ở hệ thống di sản văn hóa còn lại đến ngày nay.

Đầu tiên là đình Kim Quan - nơi thờ 5 vị phúc thần, trong đó Linh Lang đại vương được coi là đức Thánh cả. Cùng với đó là Trình Đô đại vương, Phò mã đại vương Lê Đạt Chiêu, con rể vua Lê Hiến Tông (1461 - 1504) và Thiên Tiên Đào anh tôn thần, vốn là Thiên Kiều Đào Hoa công chúa và Phương Anh phu nhân tôn thần - được coi là tổ sư của nghệ thuật ca trù khi có tài nghệ ca hát dụ giặc đầu hàng. Ở nhiều nơi trong vùng, hai nữ thần được hóa thân thành hai mẹ con bà bán hàng nước, giúp Linh Lang đánh giặc. Linh Lang đại vương - thần chủ về nguồn nước hay vị thần “tiêu thoát lũ”, được thờ ở 269 nơi trong cả nước. Việc tôn thờ Linh Lang của người dân thể hiện niềm mong cầu về nguồn nước ổn định, mang lại mùa màng tươi tốt.

Miếu Kim Quan được dựng trên một gò đất cao, hướng tây nam, nhìn ra hồ thoáng đãng. Người dân Kim Quan truyền lại là dưới thời Lê, đê sông Thiên Đức bị vỡ, tạo thành vực xoáy ở cánh đồng Kim Quan. Sau đó dân làng đắp đê quai, ở mỏm đê chỗ vực xoáy dựng ngôi miếu thờ thần Hà Bá nhằm cầu đảo không gây lũ lụt vỡ đê để người dân cày cấy. Việc tôn thờ thần Hà Bá của cư dân Kim Quan là cách ứng xử tinh thần với sông nước. 

Chùa Kim Quan có tên chữ là Ân Quang, nghĩa là ánh sáng trí tuệ Phật rọi chiếu mà gia ơn cho muôn nhà. Chùa được xây dựng vào năm Duy Tân thứ 4 (1910). Văn bia chùa Ân Quang lập ngày 10 tháng 4 năm Khải Định 10 (1925) hiện còn ghi rõ: “Thôn Thượng Kim Quan có tên gọi cổ xưa là Bạch Thổ là một thắng tích. Từ trước vốn chưa có chùa. Từ năm Duy Tân thứ 4 (1910) các cụ kỳ lão trong làng bàn với cụ Trương Văn Nhân là Bồ tát giới tì khưu tăng chùa Quảng Bá trong Hà thành phát chặt cỏ cây ở khu đất bên làng. Khi phát chặt cây lộ ra một gò tịnh thổ, bèn bàn nhau dựng lên ở đây một ngôi chùa. Khi mới chặt cây san nền thì sóng to, gió lớn dữ dội đập vào nền gò. Đến năm sau xây xong thiền tịnh thì gió yên sóng lặng. Vì thế đặt tên chùa là Ân Quang...” (bản dịch của tác giả). Hiện trong chùa còn lưu giữ hệ thống tượng pháp mang phong cách nghệ thuật đầu thế kỷ XX, cùng với chuông, bia đá là minh chứng xác nhận sự hình thành và tồn tại ngôi chùa.

Những năm qua, cụm di tích đình - chùa - miếu Kim Quan đã được UBND phường Việt Hưng và quận Long Biên trùng tu, tôn tạo nhằm phục vụ nhu cầu văn hóa, tín ngưỡng của người dân địa phương đồng thời góp phần bảo tồn hệ thống di sản văn hóa gắn với đề án Phát triển làng nghề Lệ Mật, qua đó thu hút du khách đến tham quan, tìm hiểu về một ngôi làng còn nguyên những dấu ấn văn hóa đặc trưng của vùng Đồng bằng sông Hồng.

(0) Bình luận
  • Bảo tàng Mỹ thuật ở giữa làng quê (huyện Ba Vì)
    Xứ Đoài là một vùng đất tối cổ - vùng địa văn hoá, địa thi hoạ - nơi mà con người có thể trải nghiệm đời mình trong hệ sinh thái tự nhiên của vùng đất, đi qua những truyền thuyết, cổ tích, để từ đó tạo nên tâm tính, giọng nói đặc trưng của con người xứ Đoài. Nắng và gió, núi và sông xứ Đoài đã gợi cảm hứng sáng tác cho một Tản Đà, một Quang Dũng và nhiều thi nhân, hoạ sĩ: từ Tô Ngọc Vân, Nguyễn Gia Trí đến Sĩ Tốt, Nguyễn Tiến Chung, Nguyễn Tư Nghiêm, Nguyễn Sáng... và những thế hệ văn nghệ sĩ sau này, ở họ đều có những sáng tác xuất sắc về xứ Đoài.
  • Bảo tàng Chiến sĩ cách mạng bị địch bắt tù đày (huyện Phú Xuyên)
    Đi khắp các vùng miền của Tổ quốc, những cựu tù binh Phú Quốc đã sưu tầm kỷ vật, di vật, tranh ảnh có liên quan đến các nhà tù trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược mà đồng đội và các ông đã trải qua. Hơn 20 năm kiếm tìm và góp nhặt, Bảo tàng Chiến sĩ cách mạng bị địch bắt tù đày, do chính những người cựu tù năm xưa thành lập là những minh chứng chân thực về một thời oanh liệt và hào hùng của dân tộc.
  • Bảo tàng Quê hương phong trào chiếc gậy Trường Sơn (huyệnỨng Hoà)
    Hoà Xá là một làng quê nằm sát bờ tả sông Đáy, thuộc vùng ven chiêm trũng Khu Cháy. Nơi đây sớm có phong trào cách mạng ngay từ những năm 1930, là hậu phương trung thành của cuộc kháng chiến chống Pháp. Trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Hòa Xá được xem là quê hương của phong trào động viên thanh niên lên đường “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” và câu chuyện huyền thoại “chiếc gậy Trường Sơn”.
  • Khu Cháy, Bảo tàng Khu Cháy - một địa chỉ đỏ về truyền thống đấu tranh cách mạng ở Ứng Hoà, Phú Xuyên
    “Khu Cháy” là thuật ngữ để nói về một khu du kích trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp gồm 22 xã ở phía nam huyện Ứng Hoà và tây huyện Phú Xuyên, Hà Nội.
  • Bảo tàng Tổng cục II (quận Hoàng Mai)
    Toạ lạc tại số 322 đường Lê Trọng Tấn, quận Hoàng Mai, Hà Nội trên khuôn viên rộng 3.500m2, gồm 2 tầng nhà và phần trưng bày ngoài trời, Bảo tàng Tổng cục II hiện lưu giữ 5.830 hiện vật, trong đó có nhiều hiện vật quý hiếm gắn liền với cuộc đời hoạt động của nhiều chiến sĩ tình báo xuất sắc của Quân đội nhân dân Việt Nam. Với chức năng phục vụ công tác nghiên cứu, tham quan học tập, giáo dục truyền thống, Bảo tàng Tổng cục II chính thức được Bộ Văn hoá - Thông tin công nhận nằm trong hệ thống các bảo tàng cấp 2 toàn quân.
  • Bảo tàng Binh chủng Thông tin (quận Ba Đình)
    Bảo tàng Binh chủng Thông tin thuộc loại hình bảo tàng lịch sử chuyên ngành quân sự, là thể chế văn hoá, có chức năng bảo quản và trưng bày các sưu tập về lịch sử Binh chủng Thông tin liên lạc nhằm phục vụ nhu cầu nghiên cứu, giáo dục, tham quan và hưởng thụ văn hoá của cán bộ, chiến sĩ trong Binh chủng và nhân dân, bạn bè quốc tế.
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
  • Tôn vinh di sản qua không gian trưng bày mới tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam
    Không gian trưng bày mỹ thuật ứng dụng và mỹ thuật dân gian vừa được ra mắt tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam (66 Nguyễn Thái Học, Ba Đình, Hà Nội) là điểm nhấn mới trong hệ thống trưng bày cố định, đồng thời là bước tiến trong công tác bảo tồn, phát huy giá trị di sản mỹ thuật truyền thống.
  • Phim hoạt hình Việt: Định hình bản sắc, vươn ra toàn cầu
    Với những hình ảnh sống động, chiều sâu văn hóa và thông điệp nhân văn được lồng ghép tinh tế… bản sắc Việt không chỉ là nét chấm phá tạo nên sự khác biệt cho hoạt hình nước nhà mà còn là chiếc chìa khóa vàng mở lối đưa hoạt hình Việt Nam vươn tầm thế giới.
  • Nguồn nhân lực múa: Từ chuyển động trong đào tạo đến kỳ vọng hệ sinh thái
    Trong những năm gần đây, đào tạo nghệ thuật múa tại Việt Nam đã có những chuyển biến rõ nét nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới trong hệ thống giáo dục nghệ thuật, cũng như thích ứng với sự thay đổi nhanh chóng của đời sống biểu diễn và thị trường lao động văn hóa. Nhu cầu về một thế hệ nghệ sĩ múa có tư duy sáng tạo, khả năng phản biện và hội nhập đang đặt ra yêu cầu mới cho các cơ sở đào tạo chuyên nghiệp. Kỳ thi tốt nghiệp của Khoa Múa - Trường Đại học Sân khấu và Điện ảnh Hà Nội năm 2025 đã cho thấy rõ xu hướng này với nhiều tín hiệu tích cực trong đào tạo song vẫn còn nhiều vấn đề cần giải quyết từ góc độ chính sách và hệ sinh thái nghề nghiệp dành cho nghệ sĩ múa trẻ.
  • [Podcast] Phổ biến Nghị quyết thi hành Luật Thủ đô: Nghị quyết số 24/2024/NQ-HĐND
    Thực hiện khoản 3 Điều 10 Luật Thủ đô năm 2024, tại kỳ họp thứ 19, Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội đã ban hành Nghị quyết số 24/2024/NQ-HĐND quy định trình tự, thủ tục thành lập, tổ chức lại, giải thể đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội.
Đừng bỏ lỡ
Kim Quan - dấu ấn ''cửa vàng''
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO