So với Đại Việt sử kí toà n thư - pho sử lớn nhất của nước ta thì Đại Nam quốc sử diễn ca của tác giả Lê Ngô Cát (1829-1883) chỉ là các bà i thơ minh họa cho các sự kiện lịch sử đã được nhắc đến trong pho sử nà y. Nhưng sự phóng khoáng của trí tưởng tượng và sự lộng lẫy của hình ảnh trong lời văn khiến Đại Nam Quốc sử diễn ca có một sự hấp dẫn đặc biệt: lúc rủ rỉ thiết tha như lời truyửn dạy, lúc ngân nga như câu hát đồng dao...
Danh sĩ, sử gia Lê Ngô Cát tự Bá Hanh, hiệu Trung Mại, quê ở xã Hương Lang, huyện Chương Đức, tỉnh Hà Tây cũ, nay thuộc xã Thuửµ Hương, huyện Chương Mử¹, Thà nh phố Hà Nội. à”ng vốn xuất thân trong một gia đình có truyửn thống Nho học, cha là Lê Ngô Duệ, nguyên giám sinh trường Quốc Tử Giám, đỗ Cống sinh năm 1820, sung là m nội giám ba năm, rồi nhân vì việc nhà xin cáo quan vử dạy học. Lê Ngô Cát sinh ra trong thời gian thân phụ ông đã vử quê nên tới tuổi trưởng thà nh ông học cha ngay tại nhà . Năm Mậu Thân (1848), ông đỗ cử nhân, sau đó ông ra là m quan, lần lượt trải qua các chức giáo thọ phủ Kinh Môn, tỉnh Hải Dương, ít lâu sau bổ là m tri huyện Thất Khê (Lạng Sơn) rồi thăng dần Hà n lâm viện biên tu. Năm Mậu Ngọ (1858), ông là m việc ở Quốc sử quán (Huế).
Trong các cuộc tìm kiếm sách cũ ở Bắc Kì thời vua Tự Đức (1847-1883), một người học trò ở Bắc Ninh không rõ họ tên đã dâng nộp cuốn sách cổ Sử kí quốc ngữ ca mà nội dung là diễn ca lịch sử dân tộc bằng chữ Nôm. Theo sách Đại Nam thực lục chính biên (Đệ tứ kỉ, quyển 18) thì Tháng Ba năm Tự Đức thứ 2 năm Mậu Ngọ (tức năm 1858), vua sai các quan coi sử quán là Phan Thanh Giản và Phạm Huy chọn người giửi quốc âm coi việc sửa chữa Sử kí quốc ngữ ca và nối thêm sử đời Lê Trịnh cho đến đời vua xuất đế (Lê Chiêu Thống), các quan bèn chọn Lê Ngô Cát là m biên tu và Trương Phúc Hà o chức tư vụ để sung và o việc đó. Tháng tư năm 1858, Lê Ngô Cát bắt tay và o công việc vua giao, nối thêm phần sử đời Lê Trịnh cho đến đời Lê Chiêu Thống, công việc nà y mất gần hai năm mới hoà n thà nh. Sách mới lấy tên là Quốc sử diễn ca, sau đó được Phạm Xuân Quế và danh sĩ Phạm Đình Toái sửa chữa lại một số phần và đặt tên cuối cùng là Đại Nam quốc sử diễn ca. Trong bà i tựa sách bản in lần thứ nhất viết và o đầu thu năm Canh Ngọ đời Tự Đức thứ 23 (1870), Phạm Đình Toái đã viết: Quốc sử diễn ca do quan án sát tỉnh Cao Bằng là Lê công Ngô Cát vâng lệnh soạn... quan thị lang bộ hình là Phạm công Xuân Quế đã nhuận sắc. Toà n sách cả thảy có 1887 câu. Mở đầu cuốn sử thơ, tác giả đã giới thiệu: Nghìn thu gặp hội thăng bình/ Sao Khuê sáng vẻ văn minh giữa trời/ Lan đà i dừng bút thảnh thơi/ Vâng đem quốc ngữ diễn lời sử xanh/ Nam Giao là cõi li minh/ Thiên thư định phận rà nh rà nh từ xưa/ Phế hưng đổi mấy cuộc cử/ Thị phi chép để đến giử là m gương.
Sau phần giới thiệu, Đại Nam Quốc sử diễn ca được chia là m 4 phần lớn, bắt đầu từ thời kì mở nước (Thế kỉ 29 - thế kỉ 2 trước Công nguyên (bắt đầu từ Nhà Hồng Bà ng (2879-256 trước CN) rồi đến Nhà Thục (258-207 trước CN) và Nhà Triệu (207-111 trước CN). Thời kì thứ hai là thời kì chống Bắc thuộc (Thế kỉ II trước CN - thế kỉ X sau CN) gồm các các hồi vử Nhà Hán và Hai bà Trưng (111 trước CN - 43 sau CN); Giao Châu trong thời Bắc thuộc (43 - 544); Nhà Tiửn Lý (544 - 603); Nửn đô hộ của nhà Đường (603 - 905). Thời kì xây dựng Độc lập và thống nhất (Thế kỉ thứ X) là chương lớn thứ ba, gồm Nhà Ngô (906 - 967) với Nhà Đinh và nhà Tiửn Lê (967 - 1009). Cuối cùng là thời kì phát triển (Thế kỉ XI - đầu thế kỉ XIX) bao quát từ thời Nhà Lý (1009 - 1225), Nhà Trần (Thời kì thịnh: 1226 - 1340), Nhà Trần (Thời kì suy: 1341 - 1400), Nhà Hồ và giặc Minh (1400 - 1418), Nhà Hậu Lê (1428 - 1788), Nhà Mạc (1527 - 1592), Nhà Nguyễn Tây Sơn (1786 - 1802).
Tổng thể Đại Nam Quốc sử diễn ca gồm 19 hồi sử dụng văn Nôm và thể thơ lục bát, tóm tắt các sự việc lớn xảy ra trong nước ta từ đời Hồng Bà ng đến cuối đời Tây Sơn. Chính vì đặc điểm dễ nhớ, dễ thuộc nên Đại Nam quốc sử diễn ca rất dễ đi và o lòng người. Có thể kể đến những sự kiện như: Bà Trưng quê ở châu Phong/ Giận người tham bạo thù chồng chẳng quên/ Chị em nặng một lời nguyửn/ Phất cử nương tử thay quyửn tướng quân/ Ngà n Tây nổi áng phong trần/ Ầm ầm binh mã xuống gần Long Biên/ Hồng quần nhẹ bước chinh yên/ Đuổi ngay Tô Định, dẹp yên biên thà nh/ Đô kì đóng cõi Mê Linh/ Lĩnh Nam riêng một triửu đình nước ta. (Hồi 04 - Nhà Hán đô hộ và Hai Bà Trưng). Hay Quân Thanh đã được Thăng Long/ Một hai rằng thế là xong việc mình/ Dùng dằng chẳng chịu tiến binh/ Nhác đường phòng thủ, mống tình đãi hoang/ Ngụy Tây nghe biết sơ phòng/ Giả điửu tạ tội, quyết đường cất quân/ Dặm trà ng nà o có ai ngăn/ Thừa hư tiến bức đến gần Thăng Long/ Trực khu đến lũy Nam Đồng/ Quan Thanh dẫu mấy anh hùng mà đang?/ Vua Lê khi ấy vội và ng/ Cùng Tôn Sĩ Nghị sang đà ng Bắc Kinh/ Qua sông lại sợ truy binh/ Phù kiửu chém dứt, quân mình thác oan. (Hồi 19 - Nhà Nguyễn, Tây Sơn -Quang Trung đại phá quân Thanh).
Đến nay Đại Nam quốc sử diễn cacủa Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái đã có tuổi đời hơn trăm năm. Mặc dù do điửu kiện giai cấp và thời đại của các tác giả nên nội dung và hình thức của tác phẩm có bị hạn chế trên một số điểm, nhưng nhìn chung tác phẩm đã ghi đậm một tinh thần yêu nước mạnh mẽ, sáng rực niửm tự hà o dân tộc chính đáng. Đó chính là giá trị chân chính của sách diễn ca lịch sử và những tác giả đã là m nên bà i ca nồng nhiệt vử lịch sử dân tộc ta.