Lý luận - phê bình

Tiểu thuyết “Báu vật trời Nam - Bên kia thế giới: Kết nối khát vọng khám phá, cảm thức lịch sử và lòng nhân hậu

Nhà văn, dịch giả Phạm Văn Ba 17/07/2025 07:07

Nhà văn Nguyễn Thị Anh Thư sinh năm 1959 tại Hà Nội, là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam và Hội Nhà văn Hà Nội, từng giữ chức Phó Tổng Biên tập Nhà xuất bản Hội Nhà văn. Trong sự nghiệp sáng tác, bà đã xuất bản 8 tập truyện ngắn, 2 tập truyện thiếu nhi, 4 tiểu thuyết cùng nhiều kịch bản phim điện ảnh và truyền hình. Tên tuổi của bà gắn liền với những tác phẩm dung dị, sâu sắc, giàu tính nhân văn và tinh thần dân tộc. Bà từng được trao nhiều giải thưởng văn học uy tín, gồm hai giải thưởng của Tạp chí Văn nghệ Quân đội (1985, 1987), hai giải của Đài Tiếng nói Việt Nam (2002, 2003), một giải của Báo Phụ nữ Thủ đô (2010) và hai giải thưởng của Bộ Công an (2022).

1.-cuon-tieu-thuyet-noi-ket-nguon-coi..jpg
“Báu vật trời Nam - Bên kia thế giới” - cuốn tiểu thuyết nối kết nguồn cội.

“Báu vật trời Nam - Bên kia thế giới” (NXB Hội Nhà văn) là cuốn tiểu thuyết của Nguyễn Thị Anh Thư vừa ra mắt bạn đọc đầu tháng 4/2025. Tác phẩm này được bà viết trong vòng 4 năm, lấy cảm hứng từ một sự kiện có thật gây xôn xao dư luận năm 1983, khi hai người nước ngoài vượt biển tới đảo Hòn Tre Lớn (tỉnh Kiên Giang, Việt Nam) để tìm kho báu của hải tặc theo một bản đồ cổ. Từ chi tiết đời thực đó, bà đã khéo léo phát triển thành một tiểu thuyết liên văn hóa - liên sử - liên tâm linh, đồng thời là lời tri ân sâu sắc tới những cán bộ miền Nam tập kết - những con người đã hiến trọn đời mình cho lý tưởng hòa hợp dân tộc và thống nhất đất nước.

“Báu vật trời Nam - Bên kia thế giới”
Từ giấc mơ phương Đông đến ký ức hậu chiến

Có những cuốn tiểu thuyết sinh ra để kể chuyện. Có những cuốn sinh ra để nhắc nhớ. Và có những cuốn vừa kể vừa nhắc bằng ngôn ngữ sống động, cấu trúc tinh vi, biểu tượng chồng lớp. “Báu vật trời Nam - Bên kia thế giới” là một tác phẩm như vậy.

Nguyễn Thị Anh Thư không chọn lối đi dễ dãi. Bà mở đầu tiểu thuyết bằng một hành trình phiêu lưu kiểu cổ điển: hai người bạn, Robert Blair (người Anh) và Mike Koch (người Mỹ) quen nhau tại Thư viện quốc gia Hoa Kỳ, rời Đại học Georgetown để sang Thái Lan, rồi từ đó thuê một chiếc thuyền Yacht, theo sóng biển Đông tìm về một hòn đảo bí ẩn, nơi được cho là đang cất giấu một kho báu theo một bản đồ cổ của dòng họ Blair. Cốt truyện tưởng như một sêri phim Indiana Jones phiên bản Á Đông. Nhưng chỉ sau vài chương, người đọc nhận ra: đây không phải truyện về kho báu, mà là truyện về những điều nằm ngoài định nghĩa kho báu.

Chuyến đi tìm báu vật của Robert và Mike với sự đồng hành của cô gái Việt tên Út không dẫn họ tới núi vàng hay rương ngọc. Thay vào đó, họ bước vào một hành lang của biểu tượng: những mắt thần đá, tượng Phật cổ, dòng chữ Phạn và rồng thiêng xoắn quanh cột đá Linga - Yoni. Tất cả như những dấu ấn vũ trụ - tâm linh - lịch sử được mã hóa trong từng phiến đá, mỗi bước chân. Đỉnh điểm của chuyến đi là khi Robert thốt lên, giữa xoáy ánh sáng: “Thì ra cảnh tượng này mới chính là báu vật của trời Nam, không phải của cải, không phải bạc vàng“.

Đây chính là bước “giác ngộ” của truyện - khi người đi tìm nhận ra rằng điều cần tìm nằm trong chính mình, trong ánh sáng tâm linh, trong trí tuệ phương Đông và cảm thức sự sống.

Ẩn dưới hành trình tìm báu vật là một hành trình hiện sinh: đi qua bóng tối chiến tranh, qua những mê lộ của ký ức và niềm tin, để tìm lại một điểm tựa tinh thần cho con người thời hiện đại - trong một thế giới ngày càng thiếu chỗ cho sự tĩnh tại, cho những giá trị vô hình. Khi nhân vật phương Tây buông bỏ logic và lý trí để chạm vào điều linh thiêng - cũng là lúc họ bước vào một thế giới khác: thế giới của sự hoán chuyển tâm linh, nơi quá khứ và hiện tại, Đông và Tây, sự sống và cái chết không còn là hai bờ đối lập.

Nếu tuyến truyện đầu là cuộc phiêu lưu hướng ngoại, thì tuyến truyện thứ hai lại là một hành trình hướng nội: đoàn tìm hài cốt liệt sĩ Trần Hòa Bình với sự dẫn đường của ông Phong - một thầy cúng có khả năng giao tiếp với “người âm”. Câu chuyện tâm linh không bị trình bày như một màn kịch mê tín mà là một hành động nhân đạo, một nghi lễ ký ức, một cách để con người hiện đại đối diện với lịch sử chưa khép lại.

Trong nhân vật ông Phong - một thầy cúng có khả năng “nói chuyện với người âm” - tác giả không chỉ xây dựng một hình mẫu tâm linh dân gian mà còn gợi mở một chiều kích sâu sắc hơn: đó là sự kết nối giữa cõi vô hình và đạo lý làm người. Những buổi lễ cúng tìm mộ, những giấc mơ dẫn đường, những tia sáng mơ hồ mà đầy tin tưởng - tất cả không chỉ dừng ở niềm tin tâm linh mà còn cho thấy cách con người Việt Nam đối thoại với ký ức và tử sinh. Trong thế giới ấy, sự siêu nhiên không phải để gây rúng động hay mê hoặc mà để chữa lành những khuyết thiếu của lịch sử, bù đắp những đoạn thiếu của đời người và trao lại cho những linh hồn chưa yên một danh phận được thừa nhận.

Từ ánh nhìn sâu lắng của Robert và Mike - những người nước ngoài vô tình có liên hệ với hành trình tìm mộ, người đọc thấy được sự đồng cảm vượt biên giới. Chính Mike là người đã cuốc từng nhát cuốc xuống đất, lau xương, nâng niu hài cốt liệt sĩ, châm nén hương như thể anh đang chuộc lỗi cho một thế hệ chiến tranh. Và cái kết, khi hai bộ hài cốt - một của Giải phóng, một của Việt Nam Cộng hòa nằm cạnh nhau trong lòng đất, chính là tuyên ngôn lặng lẽ nhưng mãnh liệt nhất về sự hòa giải, về nhân tính sau chiến tranh.

Thay vì khép lại bằng một kết thúc hoành tráng, tác giả đưa các nhân vật về giữa lòng Sài Gòn - nơi những bữa cơm vỉa hè, vé số dạo, ly cà phê đá, và cuộc hội ngộ bất ngờ giữa một sĩ quan Quân Giải phóng và một người phế binh Việt Nam Cộng hòa. Họ cùng ngồi hút thuốc, chia nhau vé số và gật đầu mỉm cười.

Không một lời hoa mỹ nào có thể nói rõ hơn hình ảnh ấy: báu vật thật sự không nằm dưới đất, không trên bản đồ cổ, mà ở đây - trên mặt đất này, giữa những người từng đối đầu nay cùng ngồi lại bên nhau.

Cuốn tiểu thuyết cũng làm nổi bật một điều thường bị lãng quên trong văn học hậu chiến: sự hóa giải không đến từ những bản án hay lý lẽ mà từ những hành động thầm lặng - đôi khi là một nén hương, một lời thì thầm, một ánh nhìn biết lặng yên. Các nhân vật của Nguyễn Thị Anh Thư không giải quyết chiến tranh bằng lý lẽ lịch sử mà bằng niềm tin vào tình người và sự an trú của ký ức.
Tác giả không sa vào mô tả dàn trải hay tô vẽ quá tay. Ngôn ngữ chắt lọc, hình ảnh gợi chứ không kể, đối thoại tự nhiên, đôi lúc đầy ẩn dụ. Sự đan xen giữa ký ức và hiện tại, giữa truyện chính và truyện lồng ghép cho thấy một kết cấu nhiều tầng, gợi nhớ đến kỹ thuật dựng phim hoặc tiểu thuyết hậu hiện đại - nhưng vẫn đầy cảm xúc chứ không lạnh lùng trí tuệ. Đặc biệt, cách dẫn truyện nhẹ nhàng, hầu như không có cao trào theo kiểu cổ điển, khiến hành trình đọc giống như một cuộc thiền hành - mỗi chương là một bước lặng lẽ tiến về vùng sáng.

“Báu vật trời Nam- Bên kia thế giới” không chỉ là một cuốn tiểu thuyết Việt Nam viết cho người Việt mà còn là một tác phẩm liên văn hóa, nơi phương Đông gặp gỡ phương Tây; không phải trên bàn cờ địa chính trị mà trong những khoảnh khắc người với người - khi họ cùng đối diện với mất mát, cùng tìm kiếm điều thiêng liêng và cùng cúi đầu trước sự vô thường. Câu chuyện cho thấy, chỉ khi ta bước ra khỏi cái tôi dân tộc hay ý thức hệ, mới có thể chạm đến vùng đất trung gian của lòng nhân. Tác phẩm như chiếc cầu bắc giữa những nền văn hóa, không bằng chính trị, không bằng tôn giáo mà bằng khả năng cảm nhận cái đẹp và cái thiêng - vượt qua ngôn ngữ và lịch sử.

“Báu vật trời Nam - Bên kia thế giới” là cuốn tiểu thuyết viết bằng ba chất liệu: khát vọng khám phá, cảm thức lịch sử, và lòng nhân hậu. Với giọng kể dung dị nhưng giàu nhạc tính, với cấu trúc đan xen Đông - Tây, chiến tranh - hòa bình, sự sống - cái chết, nhà văn Nguyễn Thị Anh Thư đã tạo nên một hành trình có tính sử thi thầm lặng. Không lớn tiếng, không giáo điều, cuốn sách đưa người đọc chạm đến những tầng sâu của bản sắc và lương tri.

Trong thời đại mà con người ngày càng xa rời ký ức và nghi ngờ điều thiêng liêng, “Báu vật trời Nam - Bên kia thế giới” nhắc nhở chúng ta rằng: có những báu vật chỉ hiện ra khi ta biết cúi đầu, lặng im và tin vào sức mạnh hóa giải giữa người với người.

Trong thời đại ngày nay, khi lịch sử bị diễn giải lại theo nhiều góc nhìn, khi ký ức cá nhân và ký ức cộng đồng đôi lúc rẽ thành những nhánh trái chiều, thì văn chương - nếu giữ được độ lắng, độ sâu và sự thành thật sẽ đóng vai trò như một sợi dây trung đạo. “Báu vật trời Nam - Bên kia thế giới” không chỉ kể chuyện, không chỉ gợi suy tư mà còn là một lời nhắc: rằng đôi khi, điều ta cần nhất không phải là chiến thắng quá khứ, mà là đứng cùng nhau - trong im lặng - trước những mất mát đã qua. Để không ai bị quên, và không điều gì thiêng liêng bị thất lạc.

nguyen-thi-anh-thu-yen-ba-vanvn1.jpg
Nhà văn Nguyễn Thị Anh Thư (ngồi giữa) tại buổi ra mắt sách.

Tiểu thuyết “Báu vật trời Nam - Bên kia thế giới” có thể nói là một tác phẩm đặc biệt, đánh dấu sự trở lại đầy ấn tượng của nhà văn Nguyễn Thị Anh Thư./.

Bài liên quan
  • “Con đường tương lai ” – Hành trình trí tuệ nối dài khát vọng Việt
    Nhân dịp kỷ niệm 100 năm Ngày Báo chí cách mạng Việt Nam, ngày 19/6, tại Thư viện Quốc gia Việt Nam, Hội Nhà văn Hà Nội, Viện Nhân học Văn hóa, Viện Khoa học Giáo dục và Môi trường kết hợp với Sàn văn hóa Học và Đọc Việt Nam, Nhà xuất bản Thể thao và Du lịch tổ chức Hội thảo khoa học đánh giá tập 1 và định hướng tập tiếp theo của dự án sách “Con đường tương lai”.
(0) Bình luận
  • Có một mùa thu vẫn còn thơ bé
    Khi những vạt nắng xanh non tháng Chín lung linh nhảy múa bên thềm nhà, bọn trẻ con đã bắt đầu vào năm học mới, lòng tôi lại rộn lên những cảm xúc bâng khuâng khó tả. Trong tâm trí, tôi thấy nhảy nhót những trang sách giáo khoa thời tiểu học, với hình ảnh con gà, con mèo, bắp cải, con trâu... lần lượt ùa về.
  • Để văn học Thủ đô tiếp tục khẳng định vị thế
    Song hành với thành tựu phát triển kinh tế, chính trị của Thủ đô 80 năm qua, Thành phố Hà Nội đang nỗ lực xây dựng hình ảnh một đô thị thanh lịch, văn minh, trong đó chiều sâu văn hóa được thể hiện qua các tác phẩm văn học nghệ thuật (VHNT) gắn bó với đời sống nhân dân Thủ đô. Nói riêng về diện mạo văn học, bên cạnh những thành tựu to lớn mà các nhà văn Hà Nội đóng góp trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ thì các tác phẩm văn học có quy mô và chất lượng cao ở thời kỳ đổi mới vẫn còn thưa vắng, thậm chí mờ nhạt. Nhìn lại chặng đường sáng tạo văn chương của các nhà văn dưới mái nhà chung - Hội Nhà văn Hà Nội, đặc biệt trong 20 năm trở lại đây có thể thấy rõ điều đó.
  • Cảnh và tình trong thơ Nguyễn Trọng Nghĩa
    “Chuyện hàng rào có hoa” đã mở ra một viễn cảnh giữa bề bộn của cuộc sống nơi hàng rào đầy tĩnh lặng. Sự sống cấp tập, chen lấn. Nhưng trong chớp mắt, một khoảng không ùa ra, tua tủa những mầm tươi nõn ngỡ như từ một thế giới khác hiện hình, thẳm xa hừng lên. Thảng thốt trước màn ảnh sân khấu khổng lồ, ngần sáng, các cảnh sắc và các nhân vật chính diện cứ tự nhiên hoá tình, đánh thức kỷ niệm, tưởng như trong cổ tích bước tới.
  • Âm nhạc Thủ đô - 80 năm đồng hành cùng dân tộc
    Trong suốt chiều dài lịch sử, đặc biệt là 80 năm qua, văn học nghệ thuật Thủ đô luôn đồng hành cùng dân tộc trên mọi chặng đường lịch sử: từ những ngày đầu Cách mạng Tháng Tám sục sôi khí thế, qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc, đến công cuộc đổi mới, hội nhập và phát triển đất nước hiện nay. Trong bức tranh chung ấy, âm nhạc Thủ đô Hà Nội giữ một vai trò đặc biệt: vừa là tiếng nói của tâm hồn dân tộc nói chung, tiếng nói “Người Hà Nội” nói riêng, vừa là vũ khí tinh thần sắc bén thôi thúc từng đoàn quân ra trận để bảo vệ Thủ đô, bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia, dân tộc.
  • Nghệ sĩ Tây Phong: “Con đường diễn và ca như một mạch ngầm thôi thúc”
    Mái tóc dài, trang phục lụng thụng và luôn xuất hiện trước công chúng với những màn trình diễn độc, lạ… đó là hình ảnh quen thuộc của nghệ sĩ Tây Phong dù là trên sân khấu kịch nói hay trong những chương trình nghệ thuật biểu diễn sắp đặt âm nhạc đương đại kết hợp hội họa. Với anh, mỗi vở diễn hay trích đoạn sân khấu đều là một lần sáng tạo mới, nơi người nghệ sĩ được đối diện với nhân vật, được sống trong cùng không gian, thời gian.
  • Giá trị văn hóa bền vững của nền văn học cách mạng Việt Nam 1945 - 2025
    Vai trò to lớn và quyết định của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh trong sự nghiệp sáng lập nền văn học cách mạng Việt Nam đã được khẳng định nhất quán. Người là kiến trúc sư vĩ đại của nền văn học cách mạng Việt Nam có bề dày truyền thống tính từ những năm 20 thế kỷ XX, với những sáng tác văn xuôi bằng tiếng Pháp (xuất bản ở Pháp), đặt nền móng cho nền văn học cách mạng (về sau được tập hợp trong tác phẩm “Nguyễn Ái Quốc: Truyện và ký”, Phạm Huy Thông dịch và giới thiệu, NXB Văn học, 1974).
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
  • Đôi mắt xuyên bão
    Buổi sáng đầu thu, gió vương chút lạnh và lá trên hàng sấu trước cửa văn phòng Hương bắt đầu úa vàng. Hương pha một ấm trà sen. Thói quen ấy cô đã giữ suốt bao năm cho dù cô chẳng nghiện.
  • Một dòng họ tài danh phát tích từ Lương Xá
    Nhà bác học Phan Huy Chú đã viết: “Ở làng Lương Xá nhà dòng dõi làm tướng, đời đời làm quan… Họ Đặng, từ Nghĩa Quốc công Đặng Huấn là công thần thời Lê Trung Hưng, có con gái lấy An vương Trịnh Tùng, sinh Văn tổ Trịnh Tráng. Về sau con cái đời đời vẻ vang, được phong Quận công, lấy Công chúa và làm chức Trấn thủ hơn 200 năm giàu sang mãi mãi…”.
  • Chùm thơ của tác giả Nguyễn Đăng Tấn
    Tạp chí Người Hà Nội xin trân trọng giới thiệu chùm thơ của tác giả Nguyễn Đăng Tấn.
  • Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật: Phát huy sức mạnh thi đua, khẳng định uy tín và vị thế
    Chiều 29/9/2025, tại Hà Nội, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật tổ chức trọng thể Đại hội Thi đua yêu nước lần thứ IV, giai đoạn 2025 - 2030. Đại hội là dấu mốc quan trọng nhằm tổng kết, đánh giá kết quả, chỉ ra hạn chế trong công tác thi đua, khen thưởng giai đoạn 2020 - 2025; đồng thời đề ra phương hướng, mục tiêu, giải pháp cho giai đoạn mới, xây dựng Nhà xuất bản chính quy, chuyên nghiệp, hiện đại, xứng đáng là cơ quan xuất bản lý luận, chính trị của Trung ương Đảng.
  • VEF Global dẫn đầu đoàn 30 doanh nghiệp Việt Nam tham dự CAEXPO 2025 và Hội nghị AI ASEAN – Trung Quốc với nhiều kết quả nổi bật
    Trong khuôn khổ Triển lãm CAEXPO 2025 và Hội nghị Bộ trưởng Trung Quốc – ASEAN về Trí tuệ Nhân tạo (AI) diễn ra tại Nam Ninh, Quảng Tây (Trung Quốc), đoàn doanh nghiệp Việt Nam gồm 30 đơn vị tiêu biểu đã tham dự sự kiện quan trọng này dưới sự dẫn dắt của Diễn đàn Doanh nhân Việt Nam - VEF Global. Đây là chuyến công tác mang ý nghĩa đặc biệt, mở ra nhiều cơ hội hợp tác, học hỏi và khẳng định vị thế của doanh nghiệp Việt Nam trên bản đồ AI thế giới.
Đừng bỏ lỡ
Tiểu thuyết “Báu vật trời Nam - Bên kia thế giới: Kết nối khát vọng khám phá, cảm thức lịch sử và lòng nhân hậu
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO