Lịch sử ca trù qua câu chuyện cuộc đời của một số ca nương
Sáng 24/9/2025, Hội Văn nghệ Dân gian Hà Nội tổ chức tọa đàm với chủ đề “Lịch sử ca trù qua câu chuyện cuộc đời của một số ca nương” với phần trình bày của TS.NSƯT Bạch Vân.
Ca trù là loại hình nghệ thuật độc đáo, kết hợp giữa âm nhạc, thi ca và diễn xướng được coi là tinh hoa âm nhạc Việt Nam. Suốt nhiều thế kỷ, ca trù vừa hiện diện nơi cung đình, vừa gắn bó chặt chẽ với sinh hoạt đình làng, tạo nên một không gian văn hóa đặc sắc.
Xuất hiện từ thời Lý (thế kỷ XI), ca trù phát triển rực rỡ vào thời Hậu Lê và đạt đỉnh cao từ thế kỷ XVII đến XIX, đặc biệt với thể thơ hát nói. Tuy nhiên, từ cuối thế kỷ XIX đến sau Cách mạng tháng Tám 1945, loại hình này dần suy thoái và gần như biến mất khỏi đời sống công chúng.

Trong biến thiên lịch sử, ca trù đã từng chịu những “nóng lạnh” thời cuộc, đào nương chính là nhân tố giữ lửa và trao truyền ca trù cho đến hôm nay.
Trong bài trình bày, TS.NSƯT Bạch Vân đã tái hiện chân dung nhiều nghệ nhân gắn bó cả đời với ca trù, xem đó như những minh chứng sống động cho số phận của loại hình nghệ thuật này. Đó là NSND Quách Thị Hồ (1910 – 2001) - một “giọng ca mê hoặc, ám ảnh, đạt đến đỉnh cao nghệ thuật ca trù thế kỷ XX”; là danh ca Lê Thị Diện (1926 – 2000) nổi tiếng với giọng hát ngọt ngào, kỹ thuật điêu luyện; là nghệ nhân Phạm Thị Mùi (1916 – 2005) - “cây đại thụ” của ca trù Lỗ Khê (Hà Nội), từng nổi tiếng với câu truyền tụng “hát xô mái ngói cửa đình”. Và nữa, đó là nghệ nhân nghệ nhân Nguyễn Thị Sinh (1922 – 2021) và nghệ nhân Nguyễn Thị Sính (1923 – 1996), cả hai đều có những dấu ấn đặc biệt như một minh chứng sống cho sự hồi sinh ca trù.
Và NSƯT Bạch Vân cũng không quên nhắc tới NNƯT Trần Thị Gia (1923 – 2020) ở Cổ Đạm (Hà Tĩnh) - một người đã trải qua nhiều vất vả nhưng vẫn giữ trọn niềm đam mê với ca trù; hay NNƯT Nguyễn Thị Chúc (1930 – 2014) ở Ngãi Cầu (Hà Tây cũ) từ nhỏ đã nổi tiếng với giọng hát đa sắc thái, tay phách tinh tế. Và đặc biệt là NSND Phó Thị Kim Đức sinh năm 1930 tại Hà Nội, quê gốc Ngãi Cầu (Hoài Đức, Hà Tây) – người vừa là nghệ sĩ chèo xuất sắc, vừa được coi là “kho tư liệu sống” của ca trù.
.png)
Không chỉ điểm lại những nét chính trong cuộc đời và đóng góp của các ca nương cho nghệ thuật ca trù, TS.NSƯT Lê Thị Bạch Vân còn gợi nhắc nhiều câu chuyện phía sau, hé lộ niềm đam mê, nghị lực cũng như những truân chuyên mà họ đã trải qua. Chính trong gian khó, các đào nương vẫn kiên trì vượt qua định kiến, giữ lửa và truyền lửa cho các thế hệ kế tiếp.
Tại tọa đàm, NSƯT Bạch Vân cũng chia sẻ những thăng trầm và tình yêu sâu nặng dành cho ca trù. Những đóng góp bền bỉ của các thế hệ đào nương cùng nỗ lực nghiên cứu của TS.NSƯT Bạch Vân cho thấy, dù từng đứng trước nguy cơ mai một, ca trù vẫn có cơ hội hồi sinh và tiếp tục tỏa sáng như một tinh hoa nghệ thuật bác học của Việt Nam.
Phát biểu tại tọa đàm, PGS.TS Nguyễn Thị Huế nhận định: NSƯT Bạch Vân đắm đuối say mê với ca trù, có nhiều đóng góp trên nhiều phương diện. Bảo vệ luận án tiến sĩ khi đã ở tuổi ngũ tuần, chị thể hiện độ đằm, độ sâu và cả nỗ lực bền bỉ...
Còn PGS.TS Trần Thị An – Chủ tịch Hội Văn nghệ Dân gian Hà Nội thì nhấn mạnh: Ca trù là một phần của lịch sử. Đào nương chính là chủ nhân di sản, là người giữ lửa, kiến tạo các giá trị văn hóa. Tuy nhiên, họ cũng phải chịu nhiều thị phi của thời cuộc. Cách tiếp cận của TS.NSƯT Bạch Vân cho thấy một cái nhìn mới, khi những câu chuyện đời của các ca nương, tưởng như bên lề lại trở thành nguồn tư liệu quý cho việc nghiên cứu di sản...
Nhiều ý kiến tại tọa đàm bày tỏ sự khâm phục và trân trọng trước niềm đam mê, sự cống hiến hết mình cho nghệ thuật của TS.NSƯT Bạch Vân. Gần nửa thế kỷ gắn bó với ca trù, bà không chỉ là nhân chứng sống mà còn là cầu nối giúp loại hình nghệ thuật truyền thống này tiếp tục được lan tỏa và gìn giữ trong đời sống đương đại.
Việc nhìn lại lịch sử ca trù qua câu chuyện đời các đào nương chính là cách để hiểu rõ hơn những thăng trầm của loại hình nghệ thuật này, đồng thời tìm lời giải cho sự tồn tại bền vững trong bối cảnh hiện nay./.
TS.NSƯT Lê Thị Bạch Vân là người sáng lập Câu lạc bộ Ca trù Hà Nội (năm 1991) và cũng là nhân tố kết nối nghiên cứu học thuật với thực hành nghệ thuật. Bà không chỉ tham gia các chương trình biểu diễn, tổ chức tọa đàm, nghiên cứu khoa học mà còn trực tiếp đào tạo thế hệ trẻ, góp phần đưa ca trù trở lại đời sống đương đại.