Sâm có rất nhiửu loại, căn cứ và o nguồn khai thác có thể chia là m 2 loại là : Dã sơn sâm (mọc tự nhiên, còn gọi là sâm rừng), Viên sâm (được gieo trồng, còn gọi là sâm vườn). Căn cứ và o nguồn gốc địa lý thì có Sâm Trung Quốc (Cát lâm sâm, Liêu sâm...); Sâm Triửu Tiên, Nhật Bản (Cao Ly sâm); Sâm Mử¹, Canada, Pháp (Tây Dương sâm hay Hoa kử³ sâm); Sâm Việt Nam (Ngọc Linh sâm)...
Căn cứ và o cách thức chế biến thì có Sinh sái sâm (loại để nguyên vử, rửa sạch đất cát rồi phơi khô); Đại lực sâm (khi chế biến có nhúng và o nước sôi và i phút rồi lấy ra phơi khô); Hồng sâm (loại bử rễ, râu sấy khô mà thà nh, còn gọi là thạch trụ sâm); Bạch sâm (loại ngâm tẩm trong nước đường đặc, còn gọi là Đường sâm); Cáp bì sâm (trước tiên ngâm trong nước sôi, sau đó ngâm trong nước đường loãng)....
khác nhau như: sâm nước, chè sâm, sâm viên hay viên nang, rượu sâm... hoặc để nguyên dưới dạng củ để tiện việc sử dụng nNgoà i ra, trên thị trường Sâm còn được chế biến, đóng thà nh phẩm dưới nhiửu dạnghưng các loại sâm khác nhau, cách chế biến khác nhau ngoà i thì ngoà i những công năng chung còn có những tính năng riêng.
Nghiên cứu dược lý hiện đại chứng minh thà nh phần hóa học của Nhân sâm và Tây dương sâm có chứa hơn 15 loại yếu tố vi lượng nhưng hà m lượng các yếu tố vi lượng trong Tây dương sâm cao hơn. Nhân sâm và Tây dương sâm mặc dù đửu thuộc họ ngũ gia bì; cùng là Sâm nhưng chủng loại khác nhau, nơi trồng khác nhau. Đửu là thuốc bổ khí nhưng Tây dương sâm có tính hà n còn Nhân sâm lại hơi ôn nên tính năng cũng khác nhau và có phần trái ngược nhau nên khi dùng cần chú ý phân biệt chứng trạng bệnh thuộc hà n nhiệt, hư thực để chọn lựa cho phù hợp.
Mặc dù, thực tế lâm sà ng cũng như các nghiên cứu dược lý đửu đã chứng minh Sâm có nhiửu tác dụng tốt nhưng Sâm không phải là thuốc bổ vạn năng nên không thể sử dụng một cách tùy tiện, không phải bất kử³ ai cũng phù hợp. Khi dùng còn cần lưu ý không nên cùng dùng với củ cải, cà phê, chè và những chất gây kích thích thần kinh khác vì là m giảm tác dụng của Sâm, đặc biệt những người bị cảm chưa khửi có thể là m bệnh nặng lên và không nên dùng thời gian quá dà i hay dùng liửu quá cao vì có thể gây ra những tác dụng phụ như dị ứng, phát ban, đau đầu, đà y bụng, buồn nôn, ỉa chảy...
Không dùng Tây dương sâm với những người dương khí suy, vị hà n, thấp như: sắc mặt trắng; mặt, chân, tay phù thũng, sợ lạnh, nhịp tim chậm, yếu; không muốn ăn, buồn nôn, nôn, bụng chướng, rêu lườ¡i trắng, bẩn; nam giới liệt dương, di tinh, nữ giới thống kinh, khí hư nhiửu; đặc biệt trẻ con chậm phát triển, chức năng tiêu hóa không tốt.
Theo các chuyên gia y tế khuyến cáo, việc dùng nhân sâm và chế phẩm từ sâm với liửu quá cao hoặc quá dà i ngà y thường dẫn đến ngộ độc. Có người dùng nước nhân sâm thay cho nước uống, có người ăn nhân sâm như ăn kẹo. Như thế rất nguy hiểm, nhất là với người cao tuổi, bị xơ cứng động mạch, huyết áp, bởi trong nhân sâm có chứa chất chống phân giải chất béo, sẽ là m tăng lượng mỡ. Đối với trẻ phát triển bình thường, không bị mắc các bệnh lý thì không cần dùng nhân sâm bởi sâm chỉ được dùng cho trẻ suy dinh dườ¡ng, còi xương, thiếu máu. Vì vậy, cách tốt nhất khi muốn sử dụng nhân sâm nên theo đúng chỉ định của bác sĩ hoặc những người am hiểu vử Sâm.