Tiửm lực hạn chế
Theo Bộ KHCN, hầu hết các tổ chức KHCN ở địa phương chỉ có dưới 10 cán bộ biên chế, hầu như không có cán bộ trình độ trên đại học... Đây là một trong nhiửu lý do khiến tiến độ thực hiện NĐ 115 ở các địa phương còn chậm so với quy định.
TP Hồ Chí Minh là địa phương tích cực nhất cả nước trong chuyển đổi theo tinh thần NĐ 115. Theo đó, có 5/7 đơn vị trên địa bà n đã có đử án được phê duyệt và 2 đơn vị cuối cùng sẽ tiếp tục hoà n thà nh việc chuyển đổi mô hình hoạt động trong năm 2009. Nhìn chung các tổ chức KHCN của TP Hồ Chí Minh sau khi chuyển đổi đửu có thu nhập tăng, như Trung tâm Dịch vụ phân tích thí nghiệm năm 2008 tăng 15,5% so với năm 2007, Trung tâm Thông tin KHCN năm 2008 tăng 30% so với năm 2007.
Một nguyên nhân khác là m cho việc chuyển đổi các tổ chức KHCN địa phương chậm đi và o cuộc sống là tư tưởng bảo thủ, ngại đổi mới của nhiửu đơn vị
Trong khi đó, Hà Nội có 4 tổ chức KHCN thực hiện NĐ 115 và các tổ chức nà y đã xây dựng đử án chuyển đổi nhưng đến nay chưa được phê duyệt. Đà Nẵng hiện có 5 tổ chức KHCN chuyển đổi theo mô hình tự chủ, tự chịu trách nhiệm và đến nay cũng chưa có tổ chức nà o có đử án được phê duyệt. Rõ rà ng, ở những địa phương có nhiửu điửu kiện vử nhân lực, vật lực như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Đà Nẵng mà việc chuyển đổi còn gặp trở ngại thì các tỉnh, thà nh khác sẽ khó khăn gấp bội.
Điửu đáng lưu ý là hiện cả nước vẫn còn 3 địa phương, gồm Là o Cai, Tuyên Quang, Khánh Hòa không có hoặc cho giải thể Trung tâm ử¨ng dụng tiến bộ KHCN trực thuộc Sở KHCN. Hoạt động của các đơn vị nà y những năm qua ít được chú ý, rõ nhất là tiửm lực KHCN còn rất nhử bé. Nhiửu nơi không có trụ sở riêng, cơ sở vật chất, trang thiết bị nghèo nà n, nguồn nhân lực yếu và mửng, biên chế ít. Nhiửu trung tâm chưa có cán bộ có trình độ cao, trình độ trên đại học, kể cả số cán bộ là m hợp đồng trong các trung tâm trình độ chuyên môn cũng thấp.
Trách nhiệm địa phương đến đâu ?
Một thực tế đáng buồn là hoạt động của các đơn vị KHCN ở nhiửu địa phương chưa được quan tâm đúng mức, ngay cả khi đã được Trung ương bố trí kinh phí cho các dự án đầu tư phát triển (ĐTPT). Nhiửu khi nguồn kinh phí nà y vử đến địa phương, vì nhiửu lý do khác nhau đã không được sử dụng đúng mục đích, đúng số lượng kinh phí được phân bổ.
Theo Bộ KHCN, hiện chỉ có 3/63 tỉnh là Vĩnh Phúc, Nghệ An và Hà Tĩnh gần như đã bố trí đủ 2% tổng chi ngân sách địa phương dà nh cho KHCN theo đúng quy định của Chính phủ và Luật KHCN. Đa số các tỉnh, thà nh phố còn lại không trích đủ 2%, hầu hết mới dà nh dưới 1%, thậm chí có tỉnh chỉ dà nh 0,2% tổng chi ngân sách, tức là ít hơn 10 lần so với quy định.
Trong khi đó, từ năm 2000 đến nay, Quốc hội và Chính phủ luôn duy trì tổng chi ngân sách ở mức 2% cho KHCN và trong tổng số 2% trên, khoảng 40-45% dà nh cho ĐTPT. Tuy nhiên, chính các địa phương đã không sử dụng đúng mục đích nguồn tiửn nà y.
Một nguyên nhân khác là m cho việc chuyển đổi các tổ chức KHCN địa phương chậm đi và o cuộc sống là tư tưởng bảo thủ, ngại đổi mới của nhiửu đơn vị. Nhiửu người đã hiểu sai rằng, khi chuyển đổi mô hình hoạt động thì sẽ không được Nhà nước cấp kinh phí từ ngân sách, người là m khoa học không còn là cán bộ của Nhà nước.
Thực tế, Nhà nước không cắt kinh phí từ ngân sách, kinh phí ĐTPT vẫn duy trì theo dự án, kinh phí thực hiện các nhiệm vụ KHCN vẫn được giao theo cơ chế hiện hà nh, Nhà nước chỉ thay đổi phương thức cấp kinh phí, tức là quử¹ lương và chi hoạt động bộ máy...
Từ trước đến nay, các tổ chức KHCN công lập của Việt Nam hoạt động theo cơ chế bao cấp. Người lãnh đạo chỉ cần là người có trình độ chuyên môn nhất định, được tập thể tín nhiệm, còn việc chăm lo đời sống cho cán bộ, viên chức, tạo ra công ăn việc là m vử cơ bản đã có Nhà nước lo. Kinh phí hoạt động thường xuyên của đơn vị được tự động cấp căn cứ và o số biên chế được giao. Số lượng các đử tà i, dự án một phần là tuyển chọn, phần khác là giao trực tiếp (đặc biệt tại các địa phương thì chủ yếu là giao trực tiếp). Cơ chế ấy không phù hợp với thực tiễn và cần phải có sự thay đổi.