Chuyển các tổ chức KH-CN địa phương sang cơ chế tự chủ: Vì sao chậm trễ?

Danh thắng & Di tích Hà Nội - Ngày đăng : 10:36, 03/07/2009

Cả nước hiện có 128 tổ chức khoa học và  công nghệ (KHCN) thuộc địa phương, là  đối tượng thực hiện Nghị định 115/2005/NА-CP vử cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm (NА 115) nhưng đến nay mới có 43 tổ chức đã được phê duyệt đử án chuyển đổi. Nguyên nhân của sự chậm trễ nà y do đâu?

Tiửm lực hạn chế

Theo Bộ KHCN, hầu hết các tổ chức KHCN ở địa phương chỉ có dưới 10 cán bộ biên chế, hầu như không có cán bộ trình độ trên đại học... Аây là  một trong nhiửu lý do khiến tiến độ thực hiện NА 115 ở các địa phương còn chậm so với quy định.

TP Hồ Chí Minh là  địa phương tích cực nhất cả nước trong chuyển đổi theo tinh thần NА 115. Theo đó, có 5/7 đơn vị trên địa bà n đã có đử án được phê duyệt và  2 đơn vị cuối cùng sẽ tiếp tục hoà n thà nh việc chuyển đổi mô hình hoạt động trong năm 2009. Nhìn chung các tổ chức KHCN của TP Hồ Chí Minh sau khi chuyển đổi đửu có thu nhập tăng, như Trung tâm Dịch vụ phân tích thí nghiệm năm 2008 tăng 15,5% so với năm 2007, Trung tâm Thông tin KHCN năm 2008 tăng 30% so với năm 2007.

Một nguyên nhân khác là m cho việc chuyển đổi các tổ chức KHCN địa phương chậm đi và o cuộc sống là  tư tưởng bảo thủ, ngại đổi mới của nhiửu đơn vị

Trong khi đó, Hà  Nội có 4 tổ chức KHCN thực hiện NА 115 và  các tổ chức nà y đã xây dựng đử án chuyển đổi nhưng đến nay chưa được phê duyệt. Đà  Nẵng hiện có 5 tổ chức KHCN chuyển đổi theo mô hình tự chủ, tự chịu trách nhiệm và  đến nay cũng chưa có tổ chức nà o có đử án được phê duyệt. Rõ rà ng, ở những địa phương có nhiửu điửu kiện vử nhân lực, vật lực như Hà  Nội, TP Hồ Chí Minh, Đà  Nẵng mà  việc chuyển đổi còn gặp trở ngại thì các tỉnh, thà nh khác sẽ khó khăn gấp bội.

Аiửu đáng lưu ý là  hiện cả nước vẫn còn 3 địa phương, gồm Là o Cai, Tuyên Quang, Khánh Hòa không có hoặc cho giải thể Trung tâm ử¨ng dụng tiến bộ KHCN trực thuộc Sở KHCN. Hoạt động của các đơn vị nà y những năm qua ít được chú ý, rõ nhất là  tiửm lực KHCN còn rất nhử bé. Nhiửu nơi không có trụ sở riêng, cơ sở vật chất, trang thiết bị nghèo nà n, nguồn nhân lực yếu và  mửng, biên chế ít. Nhiửu trung tâm chưa có cán bộ có trình độ cao, trình độ trên đại học, kể cả số cán bộ là m hợp đồng trong các trung tâm trình độ chuyên môn cũng thấp.

Trách nhiệm địa phương đến đâu ?

Một thực tế đáng buồn là  hoạt động của các đơn vị KHCN ở nhiửu địa phương chưa được quan tâm đúng mức, ngay cả khi đã được Trung ương bố trí kinh phí cho các dự án đầu tư phát triển (АTPT). Nhiửu khi nguồn kinh phí nà y vử đến địa phương, vì nhiửu lý do khác nhau đã không được sử­ dụng đúng mục đích, đúng số lượng kinh phí được phân bổ.

Theo Bộ KHCN, hiện chỉ có 3/63 tỉnh là  Vĩnh Phúc, Nghệ An và  Hà  Tĩnh gần như đã bố trí đủ 2% tổng chi ngân sách địa phương dà nh cho KHCN theo đúng quy định của Chính phủ và  Luật KHCN. Аa số các tỉnh, thà nh phố còn lại không trích đủ 2%, hầu hết mới dà nh dưới 1%, thậm chí có tỉnh chỉ dà nh 0,2% tổng chi ngân sách, tức là  ít hơn 10 lần so với quy định.

Trong khi đó, từ năm 2000 đến nay, Quốc hội và  Chính phủ luôn duy trì tổng chi ngân sách ở mức 2% cho KHCN và  trong tổng số 2% trên, khoảng 40-45% dà nh cho АTPT. Tuy nhiên, chính các địa phương đã không sử­ dụng đúng mục đích nguồn tiửn nà y.

Một nguyên nhân khác là m cho việc chuyển đổi các tổ chức KHCN địa phương chậm đi và o cuộc sống là  tư tưởng bảo thủ, ngại đổi mới của nhiửu đơn vị. Nhiửu người đã hiểu sai rằng, khi chuyển đổi mô hình hoạt động thì sẽ không được Nhà  nước cấp kinh phí từ ngân sách, người là m khoa học không còn là  cán bộ của Nhà  nước.

Thực tế, Nhà  nước không cắt kinh phí từ ngân sách, kinh phí АTPT vẫn duy trì theo dự án, kinh phí thực hiện các nhiệm vụ KHCN vẫn được giao theo cơ chế hiện hà nh, Nhà  nước chỉ thay đổi phương thức cấp kinh phí, tức là  quử¹ lương và  chi hoạt động bộ máy...

Từ trước đến nay, các tổ chức KHCN công lập của Việt Nam hoạt động theo cơ chế bao cấp. Người lãnh đạo chỉ cần là  người có trình độ chuyên môn nhất định, được tập thể tín nhiệm, còn việc chăm lo đời sống cho cán bộ, viên chức, tạo ra công ăn việc là m vử cơ bản đã có Nhà  nước lo. Kinh phí hoạt động thường xuyên của đơn vị được tự động cấp căn cứ và o số biên chế được giao. Số lượng các đử tà i, dự án một phần là  tuyển chọn, phần khác là  giao trực tiếp (đặc biệt tại các địa phương thì chủ yếu là  giao trực tiếp). Cơ chế ấy không phù hợp với thực tiễn và  cần phải có sự thay đổi.

HNMO