Sự hấp thu của thuốc tại đường tiêu hoá là một quá trình hết sức phức tạp, bao gồm nhiửu giai đoạn và có sự tham gia của nhiửu yếu tố. Sau khi thuốc được đưa và o đường tiêu hoá, các phân tử thuốc sẽ được phóng thích, trộn lẫn và o trong dịch tiêu hoá và được vận chuyển trong ống tiêu hoá. Một phần thuốc sẽ tiếp xúc với niêm mạc đường ruột và được hấp thu và o máu, phần còn lại sẽ tiếp tục vận chuyển trong ống tiêu hoá cùng với các thà nh phần hữu hình ở đây và tiếp tục được hấp thu ở những vị trí khác.
Các đặc tính của thuốc có ảnh hưởng lớn đến sự hấp thu là trạng thái vật lý (dung dịch, hỗn dịch hay dạng viên), khả năng tan trong nước và trong mỡ, kích thước phân tử và mức độ phân ly, độ toan kiửm (pH) cũng như nồng độ thuốc ở vị trí hấp thu. Thuốc ở dạng dung dịch nước thường dễ hấp thu hơn so với dạng dầu, hỗn dịch hoặc dạng viên. Những thuốc dạng viên có tốc độ phân rã chậm có thể gây giảm khả năng hấp thu, đặc biệt là những thuốc ít tan trong nước. Do hầu hết các thuốc được hấp thu ở đường tiêu hoá theo cơ chế khuếch tán thụ động nên những thuốc không ion hoá và có ái tính cao với lipid thường dễ được hấp thu. Các thuốc dạng viên để được hấp thu cần phải được hoà tan trước tiên. Những thuốc có khả năng hoà tan kém hoặc có tính ion hoá cao sẽ có thời gian tiếp xúc với niêm mạc ruột ngắn và sẽ ít được hấp thu. Một số thuốc có thể bị giảm khả năng hấp thu do tham gia và o các phản ứng hoá học như tạo thà nh phức hợp (giữa tetracyclin và các ion kim loại), bị thủy phân bởi dịch tiêu hoá (như penicillin và chloramphenicol), liên hợp với tế bà o thà nh ruột (như isoproterenol) hoặc hấp thụ các thuốc khác (như digoxin và cholestyramine)... Uống nhiửu nước đồng thời với thuốc có thể là m tăng đáng kể khả năng hấp thu với những thuốc có khả năng tan nhanh trong nước.
Các thuốc được hấp thu ở đường tiêu hóa theo cơ chế khuếch tán thụ động. |
Vai trò của dạ dà y
Diện tích niêm mạc dạ dà y tương đối lớn nhưng do có lớp dịch nhầy khá dà y ở trên bử mặt và thời gian tiếp xúc với thuốc ngắn nên rất ít loại thuốc được hấp thu ở đây. Tuy nhiên, hầu hết các thuốc đửu được lưu giữ và phân rã ở dạ dà y, chuyển thà nh dạng dung dịch trước khi vận chuyển xuống ruột non là nơi mà thuốc sẽ được hấp thu phần lớn. Vì lý do nà y, khả năng co bóp và đẩy thuốc của dạ dà y có vai trò hết sức quan trọng đối với cả tốc độ và mức độ hấp thu của thuốc. Dạ dà y trống rỗng thường có nhu động mạnh, nên nếu uống thuốc và o lúc đói thì tốc độ hấp thu cũng được đẩy nhanh hơn nhưng có thể gây kích ứng dạ dà y. Một số loại thuốc (như lithium) hoặc các bệnh lý của dạ dà y như viêm loét dạ dà y, xơ cứng bì hệ thống... gây giảm nhu động và khả năng co bóp của dạ dà y, từ đó có thể là m chậm tốc độ đẩy thuốc xuống ruột non. Ngược lại, các thuốc gây tăng nhu động dạ dà y như domperidone có thể là m tăng tốc độ hấp thu thuốc và o máu bất chấp đặc tính của thuốc.
Vai trò của ruột non
Ruột non là nơi hấp thu thuốc chủ yếu của ống tiêu hoá do niêm mạc ruột có diện tích bử mặt lớn và tế bà o có khả năng thấm cao, được cung cấp nhiửu máu. Khả năng hấp thu thuốc ở ruột non phụ thuộc và o nhu động, diện tích và hoạt động chức năng của niêm mạc ruột và các tuyến ngoại tiết, hoạt động của hệ thống mạch máu cũng như hệ vi khuẩn tại chỗ. Những trường hợp có giảm tưới máu cho ruột (như các trường hợp sốc) có thể gây ảnh hưởng đến khả năng hấp thu thuốc theo cơ chế khuếch tán thụ động. Hệ vi khuẩn đường ruột nếu bị rối loạn cũng có thể gây giảm khả năng hấp thu thuốc và các chất dinh dườ¡ng. Thời gian vận chuyển trong ruột cũng có thể ảnh hưởng đến khả năng hấp thu của thuốc, đặc biệt là các thuốc được hấp thu theo cơ chế vận chuyển chủ động (như các vitamin B), các thuốc hoà tan chậm (như griseofulvin), hoặc những thuốc ít tan trong lipid (như một số loại kháng sinh). Những bệnh lý (như xơ cứng bì hệ thống...) gây giảm nhu động ruột cũng có thể ảnh hưởng đến khả năng hấp thu của nhiửu loại thuốc.
Ảnh hưởng của thức ăn
Nếu thuốc được uống và o sau bữa ăn thì thức ăn có thể gây ảnh hưởng không nhử đến khả năng hấp thu của thuốc. Thông qua nhiửu cơ chế khác nhau, thức ăn có thể là m chậm hoặc là m giảm sự hấp thu của khá nhiửu loại thuốc như alendronate, doxazosin, levodopa, atenolol... Những thức ăn chứa nhiửu lipid thường nổi ở bên trên nên chậm tống ra khửi dạ dà y hơn so với các thức ăn chứa nhiửu glucid và protid. Các loại thuốc dưới dạng không ion hóa có ái tính cao với lipid, nếu được uống sau bữa ăn, có thể hòa tan trong lớp lipid của thức ăn và do đó sẽ chậm được đưa xuống ruột và cũng sẽ chậm được hấp thu và o máu. Ngoà i ra, thức ăn còn tạo thà nh rà o cản vật lý ngăn cản việc hoà tan của thuốc và sự tiếp xúc của thuốc với niêm mạc ruột hoặc tạo ra các liên kết và các phản ứng hoá học với thuốc, từ đó, gây cản trở sự hấp thu của thuốc. Thức ăn còn có thể ảnh hưởng đến việc cung cấp máu cho niêm mạc ruột, từ đó gián tiếp ảnh hưởng đến khả năng hấp thu của thuốc. Bữa ăn chứa nhiửu protid là m tăng lượng máu đến ruột, trong khi lipid gây giảm lượng máu nà y. Tuy nhiên, thức ăn có thể là m tăng đáng kể sự hấp thu của nhiửu loại thuốc như clarithromycin, danazol, retinoid fenretinide, cefuroxime, Itraconazole... Cần lưu ý là thức ăn đặc biệt ảnh hưởng lớn đến sự hấp thu của các dạng thuốc phóng thích chậm.