Người tiêu dùng mua hàng Việt Nam ở hội chợ vùng miền tại Hà Nội. Ảnh: Quỳnh Anh
Thiếu chặt chẽ, rõ ràng
Nhiều ý kiến cho rằng, dự thảo thông tư vẫn chưa quy định chặt chẽ, rõ ràng về các tiêu chí cho việc xác định hàng hóa thế nào là "made in Vietnam". Đơn cử, Điều 8 Chương III Thông tư quy định về hàng hóa có xuất xứ thuần túy chỉ nói về các hàng hóa đã có mặt ở Việt Nam, nuôi trồng, đánh bắt, chiết xuất… từ Việt Nam. Song, quy định không nhắc tới trường hợp sản phẩm được lên ý tưởng, thiết kế bởi người Việt, DN Việt nhưng các linh kiện phải lấy từ các nước khác nhập 100% thì có được ghi xuất xứ Việt Nam không? Hay tại Điều 10 Chương III Thông tư quy định các sản phẩm gia công, chế biến đơn giản, hàng hóa không có xuất xứ Việt Nam, nếu chỉ trải qua một hoặc kết hợp nhiều công đoạn thì không được coi là hàng hóa của Việt Nam. Song, quy định cũng không nhắc tới trường hợp này thì sẽ ghi xuất xứ hàng hóa từ đâu?
Tỷ lệ nội địa hóa 30% có hợp lý?
Theo dự thảo, một hàng hóa được coi là có xuất xứ Việt Nam khi tỷ lệ nội địa hóa hay trị giá nguyên liệu đầu vào xuất xứ tại Việt Nam chiếm ít nhất 30% giá trị xuất xưởng của hàng hóa đó và phải vượt qua khâu gia công đơn giản. Trao đổi về vấn đề này, một số chuyên gia nhận định, hàm lượng giá trị gia tăng 30% là tỷ lệ hợp lý và không mới. Bởi, tiêu chí này từng xuất hiện tại các nghị định và thông tư hướng dẫn xuất xứ hàng hóa không ưu đãi từ Việt Nam xuất khẩu đến các thị trường mà Việt Nam chưa ký hiệp định thương mại tự do.
Nhìn nhận ở góc độ DN, Tổng Giám đốc Tập đoàn Dệt may Việt Nam Lê Tiến Trường cho rằng, con số 30% hàm lượng giá trị gia tăng chưa thực sự hợp lý cho tất cả mặt hàng. “Đối với mặt hàng sử dụng nhiều lao động như dệt may, da giày thì hàm lượng giá trị gia tăng đạt 30% không khó. Hiện tại, ngành hàng dệt may đạt 45 - 48% trị giá nguyên liệu đầu vào xuất xứ Việt Nam so với giá trị xuất xưởng của hàng hóa. Song, đối với các ngành sử dụng ít lao động nhưng chi phí nguyên vật liệu lớn, có thể vấn đề về hàm lượng giá trị gia tăng lại trở thành trở ngại cho DN” – ông Trường phân tích.
Cần quy định cụ thể từng nhóm sản phẩm
Chia sẻ quan điểm về dự thảo thông tư "made in Vietnam", PGS.TS Nguyễn Văn Nam - Nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Thương mại (Bộ Công Thương) cho hay, hiện nay, tại Việt Nam có rất nhiều sản phẩm chỉ là lắp ráp ở Việt Nam nhưng vẫn được tính là hàng Việt. Chẳng hạn như, các sản phẩm công nghệ của Samsung, thực chất đó là sản phẩm lắp ráp tại Việt Nam, DN Việt chỉ làm được một vài chi tiết rất nhỏ, thực hiện khâu lắp ráp cuối cùng, mà khâu này khó có thể đạt được 30% như dự thảo nêu. Theo PGS.TS Nguyễn Văn Nam, dự thảo quy định cần chặt chẽ, bài bản hơn theo hướng phải phân loại theo nhóm sản phẩm, ví dụ sản phẩm cơ khí, sản phẩm điện tử, sản phẩm truyền thống, sản phẩm thô sơ... Trong từng sản phẩm phải quy định những bộ phận chính của sản phẩm là do DN Việt làm mới được coi là hàng Việt.
Điều mà các DN, người tiêu dùng mong mỏi là dự thảo cần quy định cụ thể, rõ ràng, chi tiết hơn để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và những DN chân chính. Một khuyến nghị nữa đến từ các chuyên gia đó là, để thực hiện những quy định đưa ra, Bộ Công Thương cần sớm xây dựng cơ chế, đội ngũ có chuyên môn cao, đồng thời áp dụng khoa học kĩ thuật phục vụ giám định, kiểm tra chất lượng hàng hóa, phục vụ cho việc ghi nhãn. Có như vậy, hàng hóa lưu thông trên thị trường mới đảm bảo đúng với pháp luật, góp phần loại bỏ triệt để các trường hợp vô tình hay cố tình vi phạm thông tin về nước xuất xứ.