Cơ hội hiểu rõ mỹ thuật sân khấu Việt Nam

NSND Lê Huy Quang| 16/08/2021 07:51

Thiết kế mỹ thuật sân khấu - với chức năng của người họa sĩ trang trí sân khấu - là một bộ phận không thể tách rời của nghệ thuật sân khấu - bao gồm kịch bản, đạo diễn, âm nhạc, múa, ánh sáng... Trong mối quan hệ tổng hòa đó, chức năng của người họa sĩ thiết kế mỹ thuật và người đạo diễn luôn gắn bó với nhau một cách mật thiết để làm nên thành công của vở diễn cả về nội dung và hình thức, đưa ngôn ngữ trang trí đến với người xem, tạo điều kiện cho người nghệ sĩ biểu diễn, sáng tạo những vai diễn bất tử của mình.

Cơ hội hiểu rõ mỹ thuật sân khấu Việt Nam

Cơ hội hiểu rõ mỹ thuật sân khấu Việt Nam
Thiết kế mỹ thuật sân khấu (không tính đến những ban kịch tài tử hay các gánh hát tuồng, chèo, cải lương... trước Cách mạng tháng Tám và trong kháng chiến chống Pháp với tính chất nghiệp dư và với sự tham gia của một vài họa sĩ), thì kể từ ngày thành lập Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam (1957), đã đi qua một chặng đường trên nửa thế kỷ, hình thành nên một đội ngũ các họa sĩ sân khấu Việt Nam có nghề nghiệp, bản lĩnh và tài năng. Đội ngũ này đã vượt qua không ít khó khăn, thiếu thốn, lạc hậu của sân khấu, bằng các thủ pháp tả thực, ước lệ, cách điệu, tượng trưng, kết hợp giữa nghệ thuật truyền thống của cha ông và sân khấu hiện đại, để thiết kế hàng nghìn vở diễn từ tuồng, chèo, cải lương, kịch nói, múa rối, kịch dân ca, ca múa, xiếc... Từ đó, thiết kế mỹ thuật đã đóng một dấu son và được ghi nhận như một bộ phận không thể thiếu được của tổng thể nghệ thuật sân khấu Việt Nam đương đại song do những điều kiện chủ quan và khách quan khác nhau mà công việc này hầu như chưa được ghi nhận từ phía các nhà nghiên cứu.

Giữa bối cảnh ấy, thật đáng mừng khi cuốn sách Mỹ thuật Sân khấu Việt Nam của PGS.TS Đoàn Thị Tình được NXB Mỹ thuật ấn hành cuối năm 2020. Với hơn 300 trang sách khổ lớn (16x24cm), cuốn sách đã giới thiệu với người đọc về mỹ thuật sân khấu Việt Nam từ thời cổ đại đến nay, theo trình tự thời gian. Theo tác giả, ở thời cổ đại, những yếu tố tiền đề của mỹ thuật sân khấu chính là “hình khối đạo cụ, màu sắc đường nét của hóa trang, trang phục” trong các trò diễn dân gian. Đến các thời kỳ tiếp theo, mỹ thuật sân khấu ngày càng tham gia nhiều hơn vào nghệ thuật biểu diễn nói chung, để đến khoảng thế kỷ XIX, mỹ thuật sân khấu Việt Nam đã định hình tương đối rõ ràng, nhất là ở nghệ thuật tuồng và nghệ thuật chèo, với các yếu tố trang phục và hóa trang, vẽ kẻ mặt, đạo cụ. Sau khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, xuất hiện các rạp hát với sân khấu hộp ở một số thành phố lớn như: Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn… Cùng với đó, mỹ thuật sân khấu cũng có những thay đổi cho phù hợp bối cảnh mới: trang trí sân khấu xuất hiện phông màn vẽ cảnh (họa sĩ Trần Phềnh - tức Thang Trần Bình - là người trang trí phông cảnh đầu tiên của sân khấu cận hiện đại Việt Nam), các yếu tố trang phục, hóa trang, đạo cụ, ánh sáng được quan tâm hơn. Từ giai đoạn này trở về sau, mỹ thuật sân khấu đã cho thấy vai trò không thể thiếu của mình trong một vở diễn, nên ngày càng được đầu tư nhiều hơn và cho đến trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, đã có rất nhiều họa sĩ tham gia vào công việc này với tư cách nghiệp dư. 

Thời kỳ từ năm 1945, nhất là từ năm 1954 đến năm 2000, mỹ thuật sân khấu Việt Nam đã trở thành một chuyên ngành nghệ thuật với đầy đủ các yếu tố: thiết kế bối cảnh, trang trí, trang phục, hóa trang, đạo cụ, ánh sáng được thể hiện ở tất cả các loại hình, từ kịch hát dân tộc cho đến kịch nói, rối…; với một đội ngũ họa sĩ sân khấu hành nghề chuyên nghiệp, được đào tạo bài bản cả ở trong và ngoài nước. Và đây cũng là thời kỳ mà mỹ thuật sân khấu Việt Nam có những bước tiến nhảy vọt trong cả tư duy sáng tạo và chất liệu, kỹ thuật thể hiện, làm cho sân khấu Việt Nam hòa được với sự phát triển của sân khấu thế giới. Cùng với việc trình bày những đặc điểm của mỹ thuật sân khấu qua từng giai đoạn như vậy, PGS.TS Đoàn Thị Tình còn công bố một khối lượng lớn những tư liệu hình ảnh về các phác thảo thiết kế mỹ thuật của các vở diễn, bao gồm từ cảnh trí cho đến hóa trang, trang phục…

Với những trang viết đầy tâm huyết của PGS.TS Đoàn Thị Tình - vừa dưới góc nhìn của một họa sĩ đã trực tiếp làm công việc “bếp núc” sân khấu cho các vở diễn, vừa là một nhà sưu tầm (tư liệu), nghiên cứu về chuyên ngành/ nghệ thuật này - người đọc sẽ có cơ hội hiểu rõ hơn về công việc của người họa sĩ thiết kế mỹ thuật sân khấu, từ đó có những ghi nhận đúng đắn hơn, công bằng hơn về những đóng góp của chuyên ngành này vào thành công chung của một tác phẩm sân khấu hoàn chỉnh. Bên cạnh đó, cũng có thể coi Mỹ thuật Sân khấu Việt Nam của tác giả Đoàn Thị Tình, chính là những tiếp cận đầu tiên chuẩn bị cho một/ những công trình nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện về đề tài này, trong tương lai.

Có thể thấy, cuốn sách Mỹ thuật Sân khấu Việt Nam của PGS.TS, họa sĩ Đoàn Thị Tình là một đóng góp rất đáng ghi nhận vào khoảng trống của công tác nghiên cứu về thiết kế mỹ thuật sân khấu. Đồng thời, tác phẩm này còn mang đến một niềm vui nhỏ nhoi, bình dị đối với những người làm sân khấu khi từ những trang sách mà độc giả có cơ hội hiểu rõ hơn về mỹ thuật sân khấu Việt Nam để đánh giá công bằng. 
(0) Bình luận
  • “Bóng của hoa” trên những trang thơ trữ tình đậm chất Hà Nội
    Sau hai tập thơ “Lửa lá” (2009) và “Vườn tôi nở đóa vàng bông” (2013), nhà thơ Đặng Minh Kính - hội viên Hội Nhà văn Hà Nội vừa ra mắt bạn đọc tập thơ “Bóng của hoa” (NXB Hội Nhà văn, 2024). Tôi cứ ngỡ rằng, trên những trang thơ trữ tình giàu cảm xúc tinh tế của nữ tính, đậm chất Hà Nội nơi chị đang chập chờn, ẩn hiện những “Bóng của hoa” đầy thi vị với những suy tưởng khá lắng đọng.
  • Một phác thảo toàn diện về Hà Nội thời cận đại
    Quá trình biến đổi Hà Nội từ khu nhượng địa trở thành một thành phố hiện đại kiểu phương Tây, một “Paris thu nhỏ” của chính quyền thực dân vào cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 đã được nhà nghiên cứu Đào Thị Diến phản ánh chi tiết trong cuốn sách “Hà Nội thời cận đại - từ nhượng địa đến thành phố (1873 - 1945)”. Với nguồn tư liệu quý từ hồ sơ lưu trữ, cuốn sách không chỉ phác thảo toàn diện về Hà Nội thời cận đại mà còn góp phần giải mã sự thật lịch sử.
  • Một số gợi mở trong thẩm định thơ
    Nhìn chung đánh giá về việc đọc sách văn học của công chúng, có thể theo nhiều khía cạnh, đồng sáng tạo, kích thích người viết sáng tác, bồi bổ thẩm mĩ, tích lũy tri thức, phát triển đời sống văn hóa… với những hiệu quả tích cực. Nhưng còn có những tồn tại theo chiều hướng ngược lại, mang tính nguy cơ hơn là cơ hội tốt, phản ánh sự trì trệ hơn là phát triển. Đó là sự dễ dãi trong việc đọc, thẩm định thơ từ cả người đọc lẫn người sáng tác, truyền tải.
  • Chi tiết trong sáng tạo của nhà văn
    Chúng ta đều từng quen câu nói của văn hào Nga Macxim Gorki: “Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”. Quả vậy! Chi tiết trong văn xuôi chỉ là một thứ nhỏ, rất nhỏ so với cốt truyện, tình huống truyện, nhân vật,…
  • Vũ Quần Phương với thơ hay
    Quan sát các nhà thơ viết phê bình tôi thấy rằng vì có sáng tác, nên phê bình của họ thường giàu cảm xúc, thuyết phục bạn đọc bởi sự tinh tế, thành thục của người có nghề, cùng làm nghề với tác giả được bình. Mặt khác, là người cũng từng thai nghén, mang nặng đẻ đau tác phẩm, nên nhà thơ bình thơ thường có sự cảm thông, trân trọng và sẻ chia. Các nhà thơ bình thơ thành công trước đây phải kể đến Xuân Diệu, Chế Lan Viên. Lớp kế tiếp có Vũ Quần Phương, Nguyễn Trọng Tạo, Hữu Thỉnh, Trần Đăng Khoa, Nguyễn Hoàng Sơn...
  • Văn nghệ sĩ trong Hà Nội tạm chiếm
    Sống trong Hà Nội tạm chiếm những năm 1947-1954, đời sống văn nghệ sĩ hết sức khó khăn. Nguyễn Minh Lang, Hoài Việt, Minh Tân, Thùy Linh, Nguyễn Quốc Trinh, Song Nhất Nữ, Tô Kiều Ngân, Thy Ngọc... đều sống bằng nghề dạy học ở trường tư. Nhà thơ Giang Quân trông nom một hiệu sách mang tên Quốc Việt ở 274 phố Khâm Thiên.
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
  • Tọa đàm những vấn đề về kịch bản sân khấu hiện nay
    Với mong muốn tìm ra những nguyên nhân và giải pháp về vấn đề kịch bản sân khấu hiện nay, sáng 22/11, Hội Sân khấu Hà Nội tổ chức tọa đàm “Những vấn đề về kịch bản sân khấu” với sự tham gia của đông đảo hội viên trong hội.
  • [Podcast] Thu Hà Nội – Mùa của tình yêu và nỗi nhớ
    Bốn mùa, xuân, hạ, thu, đông của Hà Nội, mỗi mùa đều mang trong mình nét đẹp riêng bới hương, bởi sắc của mỗi mùa. Nhưng có lẽ, mùa thu vẫn là một mùa thật đặc biệt của Người Hà Nội. Mỗi độ thu về như gói gọn cả một Hà Nội cổ kính, trầm mặc, một Hà Nội thơ mộng và trữ tình. Chính bởi vẻ đẹp đó mà mùa thu đã trở thành nỗi nhớ cho những ai đã từng gắn bó với Hà Nội mà nay phải chia xa, là niềm ước ao một lần được “chạm vào” của nhiều du khách.
  • Khám phá Tây Bắc tại triển lãm "Tây Park - Ngàn"
    Triển lãm thị giác "Tây Park - Ngàn" được thực hiện dựa trên quá trình 10 năm đi và trải nghiệm tại Tây Bắc (Việt Nam) kết hợp sáng tạo nhiếp ảnh của Nguyễn Thanh Tuấn.
  • Các xã, phường mới của Hà Nội sau khi sáp nhập
    Sau khi sắp xếp lại, Hà Nội có 526 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 160 phường, 345 xã và 21 thị trấn.
  • Chợ Bến Thành được xếp hạng là Di tích kiến trúc nghệ thuật cấp thành phố
    Chợ Bến Thành là một trong những địa danh tiêu biểu của TP HCM, lịch sử hình thành chợ gắn liền với đô thị Sài Gòn - Chợ Lớn.
Đừng bỏ lỡ
Cơ hội hiểu rõ mỹ thuật sân khấu Việt Nam
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO