VTPQ có thể dẫn đến nhiửu biến chứng nguy hiểm
VTPQ là bệnh hay gặp ở trẻ nhử, nhất là 3-6 tháng tuổi. Khi mắc bệnh, các phế quản nhử nà y bị viêm, sưng phù, tiết nhiửu dịch là m cho đường thở của trẻ bị chít hẹp thậm chí tắc nghẽn. Các bậc cha mẹ không được chủ quan khi thấy trẻ có những dấu hiệu như ho, chảy nước mũi trong, sốt vừa hoặc cao. Sau từ 3 - 5 ngà y thì trẻ ho ngà y một nhiửu, xuất hiện thở khó, thở rít. Những trường hợp nặng thì tím tái, thậm chí ngừng thở. Những trẻ đến viện khi thăm khám thường thấy nhịp thở của trẻ nhanh, sốt vừa, xuất hiện các cơn co kéo cơ hô hấp, lồng ngực bị rút lõm, trẻ thở rên. Tiếng thở có thể nghe ran rít, ran ngáy, thông khí phổi kém. Sau đó, trẻ ho nhiửu hơn kèm khò khè và có thể bị khó thở (thở nhanh hơn, thở co kéo lồng ngực). Nặng hơn nữa trẻ có thể bử bú, tím tái. Bệnh có triệu chứng tương tự hen suyễn. Thông thường, trẻ sẽ khò khè kéo dà i khoảng 7 ngà y, ho giảm dần trong khoảng 14 ngà y rồi khửi hẳn nếu được chăm sóc tốt. Tuy nhiên, trong khoảng 1/5 trường hợp, bệnh có thể kéo dà i nhiửu tuần lễ.
Biến chứng thường gặp của bệnh là suy hô hấp, viêm phổi (do dễ bị bội nhiễm), xẹp phổi, viêm tai giữa. Cần lưu ý là bệnh có thể sẽ nặng hơn, kéo dà i hơn, nhiửu biến chứng hơn và tử vong cũng cao hơn trong các trường hợp sau: trẻ dưới 3 tháng tuổi, trẻ sinh non - nhẹ cân, trẻ suy dinh dườ¡ng nặng, trẻ có sẵn bệnh tim, phổi, suy giảm miễn dịch. Đây là những trẻ có yếu tố nguy cơ cần được cho nhập viện sớm khi bị VTPQ. Ngoà i ra, bệnh cũng dễ tái phát.
Viêm tiểu phế quản ở trẻ em. |
Những thủ phạm gây bệnh
Tác nhân là m cho trẻ bị VTPQ thường là do các virut, đứng hà ng đầu là virut hợp bà o hô hấp, chiếm 30- 50% các trường hợp mắc bệnh. Virut nà y có 2 điểm đặc biệt: có khả năng lây lan rất mạnh nên bệnh có khả năng xảy ra thà nh dịch; người lớn, trẻ lớn cũng có thể bị nhiễm nhưng biểu hiện thường nhẹ, chỉ như cảm ho thông thường. Nhưng nếu trẻ dưới 2 tuổi bị lây nhiễm có thể biểu hiện dưới dạng nặng là VTPQ. Virut cúm và á cúm cũng gây bệnh cho khoảng 25% số trẻ bị VTPQ. Ngoà i ra phải kể đến Adenovirus với 10% số mắc.
Nếu trẻ sống trong vùng có dịch cúm hay viêm đường hô hấp trên (do virut hợp bà o) thì tỷ lệ bị lây nhiễm rất cao do sức đử kháng ở cơ thể trẻ còn quá yếu, nhất là trẻ tuổi bú mẹ mà không được bú đầy đủ sữa mẹ. Những trẻ từng bị ốm do nhiễm virut trước đó như viêm mũi họng, viêm amidan, viêm VA... đửu có nguy cơ dễ nhiễm bệnh nếu không được chăm sóc tốt. Các trường hợp trẻ bị bệnh tim bẩm sinh, sống trong môi trường hút thuốc lá thụ động, bị bệnh phổi bẩm sinh hay bị suy giảm miễn dịch đửu có nguy cơ cao mắc phải VTPQ.
Người ta cũng đử cập đến mối liên quan của VTPQ với bệnh hen. Sau khi bị VTPQ, đường thở của trẻ sẽ trở nên nhạy cảm hơn và khoảng 1/3 trẻ bị VTPQ có thể diễn tiến thà nh hen sau nà y.
Chăm sóc trẻ như thế nà o?
Nếu trẻ có dấu hiệu bệnh nhẹ, không có biến chứng, không có yếu tố nguy cơ thì có thể được chăm sóc tại nhà . Tiếp tục cho trẻ bú hay ăn uống đầy đủ. Cần cho trẻ uống nhiửu nước để tránh thiếu nước. Cần là m thông thoáng mũi cho trẻ để giúp trẻ dễ thở hơn và bú tốt hơn. Có thể nhử mũi với 2-3 giọt nước muối sinh lý sau đó là m sạch mũi cho trẻ. Cho trẻ dùng thuốc đúng như chỉ dẫn của thầy thuốc. Tránh khói thuốc lá vì có thể là m bệnh của trẻ nặng hơn và dễ bị hen sau nà y. Cần đi tái khám đúng hẹn của bác sĩ.
Khi trẻ có dấu hiệu nặng như khó thở, bú kém, tím tái, có biến chứng cần cho trẻ nhập viện để điửu trị. Đối với các thể thông thường, không có suy hô hấp thì ngay khi và o viện các bác sĩ sẽ tiến hà nh hút thông đường thở, giải phóng các chất xuất tiết. Dùng khí dung ẩm thuốc giãn phế quản có tác dụng nhanh như ventolin, bricanyl, salbutamol. Kết hợp với lý liệu pháp hô hấp, vỗ rung, hút đửm. Những trẻ sốt cao, nôn, thở nhanh phải dù đủ dịch và điện giải theo nhu cầu cơ thể trẻ. Cần cho trẻ dinh dườ¡ng đủ chất, và cân nhắc cẩn thận trước khi sử dụng kháng sinh. Đối với những trường hợp nặng có suy hô hấp thì phải sử dụng liệu pháp oxygen, hút thông đường hô hấp trên, dùng thuốc giãn phế quản đường khí dung ẩm, truyửn nước, điện giải theo nhu cầu cơ thể bù lượng thiếu hụt. Nếu những biện pháp trên không cải thiện tình trạng suy hô hấp thì phải tiến hà nh đặt nội khí quản và các biện pháp hô hấp hỗ trợ khác. Chỉ sử dụng kháng sinh khi có biểu hiện viêm nhiễm thứ phát, không nên dùng steriod cho trẻ.
Nhiửu khuyến cáo nhấn mạnh, để phòng ngừa bệnh cho trẻ các bà mẹ hãy cho trẻ bú sữa mẹ đến 2 tuổi, không để trẻ bị lạnh, giữ cho môi trường sống của trẻ được trong là nh. Những trẻ bị các bệnh tim, phổi bẩm sinh cà ng đặc biệt lưu ý vì trẻ dễ mắc bệnh và tiến triển xấu.