Minh họa của Nguyễn Văn Đức Dãy phòng trọ hướng về dòng sông. Trước đây, mảnh đất này là ao rau muống, khi khu công nghiệp hình thành, chủ nhà lấp đầy xây phòng cho thuê. Những căn phòng được công nhân ưa thích, ở đây mỗi chiều, từ trước hiên nhà họ có thể ngắm dòng sông để tìm lại chút khung cảnh của quê nhà. Chủ nhà trọ là một thiếu phụ xinh đẹp và hòa nhã, có người thất nghiệp ở lì ba tháng liền, chị cũng không hỏi tiền nhà. Bốn căn phòng đã có người đặt từ lúc mới khởi công. Khi người thuê đến ở đã đầy, hàng ngày vẫn có người đến hỏi thuê.
Ao rau muống được lấp kín, còn một khoảng đất rộng có thể xây thêm bốn phòng nữa. Phong nghe vợ chồng chủ nhà trọ nói với những công nhân thuê nhà dự tính ấy từ ngày anh mới dọn đến. Bẵng đi một thời gian, không thấy mặt người chồng, qua sự xì xào của công nhân, anh biết ông chủ nhà trọ đã bỏ nhà đi. Một tháng, hai tháng, rồi một năm trôi qua không thấy người chồng trở về. Miếng đất định xây thêm nhà trọ cỏ dại mọc đầy, chúng tràn vào tận hiên nhà, xen lẫn vào đám cỏ vài ba bụi rau muống bò lan, già cỗi nở những bông hoa như loa kèn màu tím.
Sau giờ làm việc ở công ty về, Phong tìm được cây cuốc nhỏ, mòn vẹt lưỡi, rỉ sét, được dựng bên hông nhà chủ, có lẽ nó đã nằm đây nhiều năm trước, cỏ dại phủ lên, cán cuốc bằng cây tầm vông rắn chắc mọc rêu từ những kẽ nứt. Phong cẩn thận mài lưỡi cuốc, chêm lại cán. Hai năm rồi anh chưa cầm cuốc nhưng anh không quên công việc đơn giản của một nông dân mà anh đã quen thuộc từ lúc chiều cao của anh còn ngắn hơn cán cuốc này đến vài gang tay. Ngày ấy, sau buổi học, cha anh đặt vào tay anh một cây cuốc nhỏ, ông bảo: “Hãy cố lên con, quê mình nghèo, cần phải rèn luyện để trở thành một người nông dân giỏi mới sống được con ạ!”. Anh biết mài cuốc, tra cán cuốc từ dạo ấy. Thời đất nước mới hết chiến tranh, quê anh gặp muôn vàn khó khăn, vết thương chiến tranh làm lở loét cả đồng ruộng. Mất mùa liên miên, nắng như đổ lửa, lúa ngậm đòng chết khô ngoài ruộng, bướm trắng bay rợp trời. Bà nội nhìn đàn bướm, đôi mắt già nua nhăn nheo của bà hướng về phía cánh đồng. Bé Ba - em gái của anh - ốm tong teo, da nhăn như hạt ươi rừng, khóc nhèo nhẻo. Bà cất giọng khàn đục ru cháu: “À ơi!... Chiều chiều bướm trắng bay vô … Ba năm trời hạn cây khô lá vàng”. Lời ru buồn như buổi chiều ngợp nắng trên cánh đồng khô hạn, vàng vọt. Cả nhà anh sống hờ vào đám khoai lang trên mấy gò đất. Bảy tuổi, anh đã biết cuốc đất vun vồng trồng khoai. Dây khoai lên đến đâu lũ cỏ gà lan đến đấy, anh bứt từng cụm với lòng hận thù sâu sắc, đôi tay chai sần đỏ tấy. Đã hai năm xa rời ruộng đồng, nhưng anh vẫn còn giữ thói quen ghét cỏ dại, quân súc sinh, đồ ăn bám! Không một người nông dân nào không ghét chúng.
Anh nghiến răng mài lưỡi cuốc lên cục đá xanh, lưỡi cuốc chuyển dần màu xanh của sắt.
- Anh làm gì vậy?
Một giọng nói nhỏ nhẹ phía sau lưng. Anh ngẩng lên, chị Hạnh chủ nhà trọ nhìn anh mỉm cười.
- À, chào chị! Tôi tính xạc đám cỏ dại trên miếng đất này, chúng làm loạn cả rồi.
Chị thở dài:
- Làm phiền anh quá! Nhà không có đàn ông thật khổ…
Nói xong chị quay lưng đi. Bờ vai tròn và thanh mảnh thấm đẫm nắng chiều. Trông chị cô độc và mềm mại như một bông hoa muống.
Phong cắn môi cắm cúi xạc, những bụi cỏ lật tung lên dưới bàn tay mạnh mẽ của anh. Anh cố giữ lại những bụi rau muống xen lẫn trong đám cỏ. Những dây muống mọc dài trên bờ sông quê đã nuôi anh khôn lớn, anh có cảm tình với loại rau dân dã này. Mẹ càng ngày càng già cỗi, gân guốc như cây muống dại. Ngày mai công ty anh phát lương, anh sẽ gởi về phụ cha mẹ nuôi em. Hằng tháng, anh vẫn dành một phần lớn số tiền lương gởi về cho gia đình, số tiền ấy bằng nửa tấn lúa.
Chị Hạnh trở lại đám cỏ với ly nước chanh trong tay. Chị nhoẻn miệng cười với anh, nụ cười đẹp mê hồn. Lâu lắm anh mới thấy chị cười, từ ngày chồng chị bỏ đi đến nay, lần đầu tiên anh thấy chị cười. Anh cảm ơn, đón ly nước từ tay chị. Ly nước mát rượi, thấm tận ruột gan.
***
Phong nhận quyết định nghỉ việc với một thái độ trầm tĩnh, anh chào bạn bè lần cuối, trước khi rời công ty. Họ siết chặt tay anh, ánh mắt lấm lét hướng về gã quản đốc đang quàng vai đưa Phong ra cổng. Lần đầu tiên trong công ty này, có một người nghỉ việc được chính gã quản đốc đưa đi một cách thân thiện như vậy. Gã siết chặt tay và nhìn anh với ánh mắt kính nể. Mãi sau này anh mới hiểu tại sao gã lại có thái độ lạ lùng như vậy đối với anh. Phong đưa tay rờ mặt, vết bầm đã đỡ hơn nhưng vẫn còn nhưng nhức, kể ra quả đấm của gã cũng có đẳng cấp lắm. Khi anh mang vết bầm trên gò má về nhà trọ, chị Hạnh rối rít dùng nước muối xoa mặt cho anh, bàn tay của chị mềm mại và nhẹ nhàng. Lần đầu tiên trong đời, anh được chăm sóc bởi bàn tay của một phụ nữ không phải mẹ anh. Phong nhắm mắt cố kìm chế hơi thở dồn dập của mình.
Hôm qua, tại sân nhà xưởng công ty đã xảy ra cuộc quyết đấu tay đôi giữa Phong và gã quản đốc. Anh hành động, ngay cả chính anh cũng thấy bất ngờ. Một công nhân làm hỏng sản phẩm, gã quản đốc gầm lên, cầm chiếc giày ném vào mặt anh ta. Cú ném bất ngờ và chính xác, khiến máu mũi anh công nhân tuôn ướt cả áo. Không kiềm chế được, anh công nhân lao vào và hậu quả là anh ta lãnh trọn những cú đá liên hoàn của gã. Không thể khoanh tay nhìn, Phong lao vào quật gã văng ra và bảo: “Ông là một thằng hèn! Nếu ông là một người có tinh thần thượng võ, ông không được tấn công vào người không có khả năng tự vệ. Nếu ông muốn đánh nhau, ông hãy đánh với tôi, một cuộc giao đấu sòng phẳng. Tôi thách đấu với ông!”. Sau tiếng “Được” lơ lớ, gã phóng cú đá thần tốc về phía anh, Phong lòn người vừa tránh đòn vừa “nhập nội”, tung một chỏ ngược ngay cằm gã… Cuộc quyết đấu kéo dài chưa tới ba phút, gã đập tay xuống đất xin hàng. Những thế võ gia truyền của dòng dõi võ tướng nhà Trần, cộng với sự gân guốc của đôi tay “cuốc lật cày ải” trên cánh đồng khô cằn sỏi đá miền Trung, đã giúp Phong vô hiệu hóa môn võ truyền thống của xứ sở mà gã quản đốc luôn tự hào là “tinh hoa võ học trên thế giới”. Công nhân hét lên: “Đánh chết mẹ nó đi!...”. Phong khoát tay ra hiệu cho họ lui ra. Hôm sau, gã gọi anh lên văn phòng, chìa tay xin được kết bạn cùng anh. Gã bảo, vì uy tín của gã với cả ngàn công nhân, gã mong anh nghỉ việc, gã sẽ bồi thường cho anh một khoản tiền. Tỏ ra “mã thượng”, Phong chấp nhận đề nghị nghỉ việc, nhưng nhất quyết không nhận tiền của gã. Anh chỉ nhận khoản tiền trợ cấp theo luật lao động.
Phong thả bộ dọc theo con đường chính của khu công nghiệp. Hoa điệp vàng nở rộ. Cô công nhân vệ sinh đang quét lá khô, những chiếc lá nhỏ li ti cứ rắc xuống con đường bóng lộn này như trêu chọc, thách thức sự cần mẫn của cô. Cô dừng chổi gỡ khẩu trang, mỉm cười chào anh. Hành động của anh đã trở thành một “sự kiện” trong khu công nghiệp, anh trở nên nổi tiếng, dù sự nổi tiếng chẳng vinh quang gì.
Vài triệu bạc tiền trợ cấp thôi việc trong túi, anh sẽ phải đối đầu với khó khăn phía trước nhưng Phong cảm thấy thanh thản, anh không ân hận việc đã làm. Trước khi anh lên đường vào Nam lập nghiệp, ông nội anh làm thịt con gà trống mà ông yêu quý nhất, bắt anh đội đến nhà thờ tộc. Ông nhắc cho anh nhớ, tộc Trần có năm quan võ, bảy quan văn, một anh hùng, ba ông tướng của hai phía, mười bốn liệt sĩ, mười hai tử sĩ. Trong làn khói hương nghi ngút, ông nói: “Cần biết sống cho ra sống, đừng để người ta khinh!”. Chạy vạy nhiều ngày, anh mới kiếm được một chỗ làm trong cái khu công nghiệp rộng thênh thang này, nơi có hàng trăm ngàn con người đang giam mình mỗi ngày tám tiếng đồng hồ giữa bốn bức tường, cặm cụi bên những dây chuyền máy công nghiệp chạy ầm ầm. Phong đã cố làm thật tốt công việc và nhịn nhục theo lời khuyên của những người đi trước. Nhưng cái câu “Kiến ngãi bất vi, vô dõng dả” mà ông dạy cho anh từ lúc còn học đứng tấn bất ngờ bật ra và Phong mất việc!
Con đường đẹp quá vậy mà sao lâu nay anh không chú ý nhỉ? Sau giờ tan ca, những gương mặt bơ phờ nhòa vào nhau, ai cũng vội vã chạy về nhà trọ để lo bữa cơm chiều, rồi tranh thủ ngả lưng chuẩn bị sức cho ngày mai vào ca. Có mấy ai chú ý những hàng điệp nở vàng rực hai bên đường!
Con đường này dẫn ra bờ sông, con sông lừng lẫy một thời của miền Đông Nam Bộ, đang bị lở lói bởi nạn khai thác cát nhưng nó vẫn còn mênh mông lắm. Khác với những con sông miền Trung, sông ở đây lúc nào cũng đầy ắp nước, chảy êm đềm, trầm tĩnh và từng trải.
Nghĩ về dòng sông, anh chợt nhớ lời dặn của ông nội trước khi lên đường. Ngày đó, với lòng háo thắng của tuổi hai mươi, anh nghĩ ông mê tín và lẩm cẩm. Ông là người duy nhất trong làng còn đọc được chữ Nho. Nỗi đau lớn nhất của đời ông là trong số con cháu tộc Trần còn sót lại sau chiến tranh, không ai đọc được cuốn gia phả của dòng họ. “Bây giờ chúng nó quên cả lễ nghĩa!” - ông thường phàn nàn như thế. Để giữ được ngày ba bữa cơm và ba tuần nhang cho nhà thờ họ, cha mẹ anh đã vắt kiệt những giọt mồ hôi trên những mảnh ruộng cằn cỗi. Nhìn lưng áo cha trắng xóa mồ hôi dưới cái nắng gay gắt của miền Trung, anh quyết định phải ra đi! Thế hệ anh không thể chịu được đói, nghèo để cố gìn giữ những cái mà theo anh là rất mơ hồ và lỗi thời, đang cố vùng vẫy sống lại. Căn nhà từ đường của dòng họ mới được xây lại, sau thời gian dài đổ nát bởi chiến tranh và sự ấu trĩ, nó được xây bằng những “hạt mồ hôi” trắng tinh của những người như cha anh. Ngày anh ra đi, ông nội mặc áo dài khăn đóng, đốt trầm hương rồi trịnh trọng nâng ba đồng bạc cổ gieo vào cái đĩa sành. Khi thanh âm phát ra từ sự va chạm khô khốc ấy, chìm vào những kèo, cột, rui, mè bằng gỗ mít đỏ au, ông lẩm bẩm: “Chưa qua sông con ạ! Con đi lần này nhớ cố bình tĩnh giữ gìn, đừng nóng nảy hấp tấp, không có lợi. Tuy nhiên, con cũng cần nhớ là chưa qua sông chứ không phải không qua sông được!”. Anh khoanh tay cố ra vẻ chăm chú nghe ông dặn nhưng đầu óc mãi nghĩ về nơi anh sẽ tới, một xứ sở sôi động nhịp sống hiện đại. Bây giờ bỗng dưng lời ông ngày ấy lại hiện về rõ mồn một, y như ông vừa mới nói với anh ngày hôm qua… Phong sẽ không trở về quê với hai bàn tay trắng. Cứ ở tạm trong phòng trọ một thời gian, thế nào cũng phải nghĩ ra cái gì đó, chắc chắn như thế. Không buồn, không vui, Phong trở về phòng trọ.
Mỗi căn phòng trọ mưới sáu mét vuông, hai chiếc giường, bốn người ở. Ba chàng trai cùng phòng với Phong đã đi làm. Từ ngày thất nghiệp đến nay, Phong thành kẻ phụ việc cho họ. Anh nấu ăn, giặt giũ, lau dọn phòng. Giờ rảnh, Phong loay hoay làm những ngôi nhà nhỏ bằng tre. Cái nghề này ngày xưa ông nội dạy cho anh.
Chị Hạnh vào phòng lúc Phong đang chuốt bóng những thanh tre. Ngồi ghé bên mép giường, chị gợi chuyện:
- Phong làm nhà cho búp bê hả?
- Ừ, làm cho vui, ngồi không làm gì …
- Nóng khiếp Phong ha!
- Ừ, mấy ngày nay nóng quá, chắc sắp có mưa.
Chị Hạnh cười:
- Phong cứ làm như ở miền Trung quê Phong không bằng. Trong này làm gì có mưa giông!
- Ừ, quên mất.
- Sao mấy ngày nay chẳng thấy tí gió nào ở sông thổi vào cả…
Hạnh lơ đãng nhìn về phía dòng sông, nước đục ngầu vài khóm lục bình tả tơi lặng lờ trôi. Dòng sông lạc lõng và buồn thảm. Không rời mắt khỏi giề lục bình, chị nói với Phong:
- Bây giờ Phong tính làm gì?
- Phong làm những ngôi nhà bằng tre bán cho bọn trẻ. Ở quê Phong tre nhiều vô số kể, con người sống nhờ cây tre, ông nội Phong là một “nghệ nhân tre”. Ông làm được những lồng chim và những ngôi nhà tuyệt đẹp, chúng đẹp như trong truyện cổ tích. Những ngôi nhà ông làm để bày chơi, quê Phong không ai mua thứ ấy làm gì. Nhưng những ngôi nhà tre ấy là cả một thế giới đầy huyền thoại của tuổi thơ. Phong luôn mơ ước lớn lên mình sẽ làm những căn nhà thật, xinh như vậy để mà ở.
Chị Hạnh mơ màng:
- Tôi cũng thích những căn nhà như thế.
Căn nhà tre đầu tiên hoàn thành, anh tặng cô bé con của chị Hạnh. Cô bé thích quá, nâng niu như báu vật. Phong cũng nhiều lần thấy chị say mê ngắm căn nhà ấy. Chị bảo: “Ngày xưa, mình cũng ở trong căn nhà như thế này!”.
Chị kể cho Phong nghe chuyện của vợ chồng chị, một câu chuyện lạ mà Phong không thể tin là có thật trong cuộc đời này.
Căn nhà đầy ắp tiện nghi mà vợ chồng chị sắm được là từ ngày anh bỏ dạy đi làm phiên dịch cho một công ty nước ngoài. Tiền cho thuê phòng trọ, tiền lương của anh, chị chắt bóp trả nợ, xây nhà, sắm sửa vật dụng. Ngày anh phá căn nhà bằng tre lá, chị thẫn thờ mấy ngày đêm.
Từ ngày anh ra đi đến nay, mọi vật vẫn như cũ. Mỗi ngày, chính xác là mỗi buổi sáng, chị đều cẩn thận mở hộp thư trước cổng, rồi thẩn thờ nhìn lá thư của mình nằm chỏng chơ lạc lõng. Những giờ lên lớp trở nên nhạt nhẽo, vô vị. Chị không còn tìm thấy niềm vui, nỗi buồn trong đôi mắt của lũ trò nhỏ. Những ánh mắt thơ ngây một thời giúp cho chị vượt qua khốn khó để đứng trên bục giảng.
Ngày xưa, chị còn nhớ, mỗi sáng chị rời ngôi nhà bằng tre lá, ngôi nhà đẹp như ngôi nhà búp bê mà Phong làm tặng con chị, cùng xe rau muống ra chợ bỏ mối. Đám học trò đi học cũng mang cặp lên vai đẩy xe phụ chị, cô trò ríu rít. Có lẽ nhờ đám học trò mà các bạn hàng ngoài chợ lấy hàng của chị không một chút so kè. Chị mua cho mỗi đứa một cây kẹo, học trò vừa mút kẹo vừa nhìn vào mặt chị, chắc hẳn trong đầu óc ngây thơ bọn trẻ nghĩ chị là cô tiên. Cô bé lớp trưởng bảo gương mặt cô giáo rất giống cô tiên! Niềm vui ngày ấy thật hồn nhiên. Ao rau muống giúp chị xoay xở bù đắp vào đồng lương khiêm tốn của hai vợ chồng. Căn nhà nhỏ bé của họ luôn đầy ắp tiếng cười. Ngày nào cắt rau, chị cũng nhặt vài bông hoa muống cắm trên bàn làm việc của anh, anh yêu hoa muống lắm. Anh bảo: “Ít có loài hoa nào giản dị mà đẹp như hoa muống. Màu phớt tím của nó đã chứng minh tạo hóa là bậc thầy về phối màu”. Sau ngày cưới, anh đặt một cái hòm thư bằng sắt ở cổng. Anh bảo: “Có chuyện gì cần tâm sự, chúng mình viết ra giấy rồi bỏ vào hòm thư, không nên dùng ngôn ngữ nói, dễ xúc phạm đến nhau”. Lúc nào anh cũng hấp dẫn chị bằng ý tưởng bất ngờ. Mỗi sáng thức dậy, chị hồi hộp mở hòm thư và thở phào nhẹ nhõm khi đọc những dòng chữ chứa đựng sự âu yếm của anh dành cho chị. “Con bồ câu nhỏ của anh, hôm qua món canh rau muống thật tuyệt!”, “Con mèo con của anh, em mặc áo hoa cà đẹp quá. Anh gọi em là mèo hoa nhé!”, “Ôi sao mà hôm nay em ngủ trông đáng yêu đến vậy! Anh ước gì những bông hoa muống này biến thành hoa hồng để anh ướp quanh người em!”… Những dòng chữ mới tuyệt vời làm sao, chị cám ơn anh đã nghĩ ra cái hòm thư. Viết thì dễ, chứ ngày nào cũng nói những lời có cánh như vậy khó quá. Chị đáp trả cho anh bằng những dòng chữ nồng thắm không kém. Tất nhiên, đôi lúc chị cũng cảm thấy gờn gợn, ví như chị thắc mắc: “Vì sao anh bảo anh thích hoa muống và anh biết mình cũng thích mà anh lại ước nó thành hoa hồng?”. Thắc mắc cỏn con ấy chìm mất tăm vào những lời yêu thương nồng thắm, nên chị cũng mau quên. Nhiều ngày, nhiều tháng, nhiều năm trôi qua… Chị bắt đầu cảm thấy buồn vì những lời thư của anh không có gì thay đổi, vẫn nồng nàn và âu yếm. Bỗng dưng chị đâm hoảng, chẳng lẽ vợ chồng mình hoàn hảo đến thế sao? Chẳng lẽ cả hai đều không có khuyết điểm nào hay sao? Mỗi lần mở hòm thư, chị lại thở dài khi thấy những lời âu yếm. Chị chờ đợi một lời trách mắng hay giận hờn của anh. Sự chờ đợi của chị rồi cũng đến, dù một lời trách nhẹ nhưng chị vui mừng và sung sướng. “Có thế chứ!” - chị khẽ thốt lên. Lời trách móc anh dành cho chị nhờ vào đứa con gái tinh nghịch. Con gái chị đã lớn, nó lén xem trộm thư trong hòm thư. Một hôm, đang ngồi ăn nó bảo: “Ba mẹ chat kiểu cổ điển, chúng con bây giờ chat trên máy tính không hà!”. Con bé nói xong, anh đưa mắt nhìn chị. Sáng hôm sau, chị nhận được bức thư: “Em yêu! Từ câu chuyện của con, nảy ra vấn đề là em quản lý con không chặt, để nó rong chơi mấy điểm trên internet và chưa giáo dục nó không được xem trộm thư người lớn. Để khắc phục tình trạng này, anh yêu cầu em phải mua ngay ổ khóa, khóa hòm thư và theo dõi con bé tốt hơn!” . Ngay hôm sau, chị mua ổ khóa, giao cho anh một chìa. Từ ngày hòm thư có ổ khóa, những bức thư của anh có vẻ hằn học hơn. Chị bắt đầu cảm thấy lo lắng. Dù chị cố viết cho anh những bức thư hết sức dịa dàng, nhưng sự đáp trả của anh ngày càng nặng nề. Bức thư cuối cùng chị nhận được sau cái đêm anh dành cho chị “sự cuồng nhiệt” đến ngạc nhiên. Bức thư vỏn vẹn có mấy chữ: “Anh không tìm được khuyết điểm để từ bỏ em, nhưng anh đã trót yêu…! Hãy tha lỗi cho anh!”. Anh lặng lẽ ra đi, để lại tất cả tài sản cho chị. Chị tưởng mình có thể nhảy xuống sông nhưng chị chợt nhận ra, anh để lại cho chị một niềm hy vọng: Anh đã đem theo chiếc chìa khóa hòm thư mà chị trao cho anh! Chị quyết định đưa hòm thư ra ngõ, chị gắn cái hòm thư nhỏ bé trên cánh cổng, chị bỏ vào đấy một lá thư và chờ đợi sự hồi âm của anh. Mỗi chiều, sau giờ lên lớp, chị dẫn đứa con gái mười bốn tuổi đi dạo bờ sông, nói đúng hơn là con bé dẫn chị đi, trông họ như hai chị em. Đã ngoài ba mươi mà chị còn đẹp lắm, một nét đẹp mỏng manh và thuần khiết. Con gái tung tăng phía trước, còn chị nhìn đăm đắm qua bên kia sông, chân bước vô hồn.
Những lúc như vậy, Phong lặng lẽ đi theo sau lưng mẹ con họ, một khoảng cách vừa đủ để anh ngắm tấm lưng thon thả của chị.
***
Cuộc đời có nhiều chuyện không ngờ.
Phong làm những ngôi nhà nhỏ bằng tre, cột lên xe gắn máy cà tàng mới tậu, chở đi bỏ mối. Sản phẩm của anh làm ra không đủ bán.
Đang cố tăng ga để vượt dốc, bỗng một chiếc xe hơi bóng lộn thắng “két” trước mặt. Một người nước ngoài tiến về phía anh, reo lên bằng tiếng Việt khá sõi:
- Kìa Phong, Phong phải không?
- Ô Lee! Không ngờ chúng ta còn gặp nhau - Phong mỉm cười trả lời.
- Chúng ta là bạn mà. Vào quán nghỉ chân một tí nhé!
Sau khi an vị quán bia ven đường, Phong hỏi Lee:
- Sao lúc này ông nói tiếng Việt giỏi vậy?
- Cũng nhờ bạn đấy! Sau vụ chúng mình đụng độ với nhau, mình cất công tìm hiểu văn hóa và võ học Việt Nam. Càng tìm hiểu mình càng khâm phục. Bây giờ mình đã cưới vợ Việt Nam và quyết tâm theo quê vợ. Lúc này mình khắc phục được tính nóng nảy và thái độ coi thường thiên hạ. À, anh công nhân làm hỏng sản phẩm ngày xưa, bây giờ đã là tổ trưởng.
Phong nâng ly bia:
- Xin chúc mừng ông.
Lee hưởng ứng:
- Chúc mừng cuộc hội ngộ của chúng ta hôm nay.
Sau khi uống cạn chai bia, Lee hỏi:
- Cuộc sống của bạn lúc này như thế nào?
Phong vắn tắt công việc của anh cho Lee nghe.
Anh còn nói với Lee về dự định trong tương lai, anh sẽ làm những căn nhà tre để xuất khẩu. Ngắm nghía những căn nhà nhỏ của Phong đang cột trên xe,
Lee gật gù bảo:
- Ngày còn nhỏ, mình cũng từng mơ ước ở trong những căn nhà như thế này.
Nói xong Lee đưa tay về phía Phong:
- Chúng ta hợp tác làm ăn nhé.
- Hợp tác ư? Tôi có gì đâu.
- Bạn có ý tưởng và tay nghề, tôi có vốn. Bạn hãy suy nghĩ lập một đề án làm những căn nhà tre lớn để người ở hẳn hoi chứ không phải để cho búp bê. Tôi sẽ đầu tư vốn và bao tiêu sản phẩm. Những sản phẩm này sẽ xuất khẩu qua châu Âu.
Sau cuộc gặp gỡ bất ngờ với Lee, Phong suy nghĩ nhiều đêm, cuối cùng anh quyết định hợp tác với Lee. Anh nghĩ, đất nước thời mở cửa, Nhà nước kêu gọi đầu tư, nhiều quốc gia đã từng xung đột với mình bây giờ còn hợp tác một cách thân thiện. Anh với Lee đâu phải kẻ thù, trước đây anh còn chấp nhận bắt tay kết bạn với Lee kia mà. Anh cắm cúi lập đề án. Một tháng sau, công ty “Phong Việt” ra đời.
Phong không ngờ sản phẩm tre nứa nhanh chóng chiếm lĩnh được thị trường. Những ngôi nhà tre xuất khẩu của công ty đã có mặt nhiều nơi trên thế giới. Phong vô cùng biết ơn ông nội anh, những lời dạy, cùng những thế võ của ông và loại cây mộc mạc của làng quê đã giúp cho anh có ngày hôm nay. Tất nhiên, anh không thể quên Lee, người bạn nước ngoài đã từng đánh nhau với anh.
***
Như thường lệ, Phong cho cậu tài xế đi chơi để một mình anh bên quán café nhỏ hướng mặt ra sông.
Kể từ ngày rời phòng trọ bên bờ sông đến nay, không ngày nào Phong không nhớ về chị Hạnh. Phong không thể lý giải được vì sao có nhiều cô gái trẻ vây quanh mà anh vẫn chỉ yêu một mình chị. Đôi mắt thăm thẳm của chị làm anh choáng ngợp ngay từ khi vừa đặt chân đến phòng trọ. Ngày anh trả phòng trọ dọn về công ty, chị tiễn anh ra tận bờ sông và chúc anh thành công. Chị bảo: “Mọi người lần lượt bỏ tôi ra đi…”. Dường như đôi mắt đen láy ngấn lệ. Đôi mắt ám ảnh cuộc đời anh cho đến hôm nay.
Lần này, Phong trở lại với lòng quyết tâm sẽ thực hiện một việc mà anh đã chuẩn bị nhiều ngày. Bờ sông bây giờ đã khác, mỗi chiều chị vẫn đi dạo trên con đường mới làm dọc bờ kè bên sông. Có lẽ con gái đã vào đại học nên chị dạo một mình. Mái tóc buồn hơn xưa, bay rối cả hoàng hôn! Phong ngắm chị từ xa. Từ bờ sông quay về, chị ngập ngừng nhìn hòm thư han rỉ, rồi cúi đầu bước qua vòm cổng sắt cũ kỹ. Chị vào nhà, Phong thở dài đứng lên trả tiền nước.
Nhưng lần này anh sẽ không trở về cùng với tiếng thở dài! Phong đưa tay sờ túi, cái phong bì mỏng manh anh chuẩn bị công phu hơn những căn nhà tre xuất khẩu mà anh đã tạo ra. Anh viết đi viết lại nhiều lần về mối tình đơn phương anh ấp ủ nhiều năm qua. Anh cũng không dám thổ lộ tình cảm của mình, nếu như anh không tìm hiểu và được biết, chồng chị đã định cư ở nước ngoài cùng với một cô gái khác.
Mặt trời khuất dần sau những ống khói của khu công nghiệp bên kia sông, dòng sông lấp lóa ánh đèn cao áp hai bên bờ rọi xuống. Chị Hạnh chậm chạp quay về, ngập ngừng, cúi đầu bước qua cổng. Phong rảo bước, thu hết can đảm cho tay vào túi lấy phong bì màu xanh trịnh trọng bỏ vào hòm thư. Hẳn chị sẽ rất bất ngờ với lá thư của Phong. Phong sẽ trở lại khi chị đã bình tĩnh.
Lòng thanh thản và đầy tự tin vào tương lai, Phong chậm rãi đi về phía dòng sông.