Nhìn lại tiến trình ngà n năm ấy ta có thể tìm thấy những nhân tố căn bản đã tạo nên diện mạo văn hóa của Thăng Long-Hà Nội quá khứ và tương lai. Một thiên niên kỷ trôi qua kể từ quyết định dời đô của Đức Lý Công Uẩn đưa ra chỉ và i tháng sau lên ngôi, khởi lập triửu Lý. Cái quyết định mà sử chép đương thời đã được tất cả bá quan văn võ khẳng định việc lợi như thế ai dám không theo (Đại Việt sử ký toà n thư).
Còn sử gia đời sau bình phẩm: Lý Thái Tổ lên ngôi, chưa vội là m việc khác, mà trước tiên mưu tính việc định đô, đặt đỉnh, xét vử sự quyết đoán sáng suốt mưu kế anh hùng, thực những vua tầm thường không thể theo kịp (Ngô Thì Sĩ- Đại Việt sử ký tiửn biên). Hãy nhìn nhận quyết định nà y từ góc độ văn hóa. Trong lịch sử cả ngà n năm dựng nước và giữ nước kinh đô nhà nước Văn Lang của các Vua Hùng nằm trên đỉnh cái tam giác hợp lưu của những con sông trước khi đổ xuôi vử lưu vực sông Hồng, mang tên Phong Châu.
Sự hợp sức giữa à‚u Việt và Lạc Việt thà nh quốc gia à‚u Lạc đã đưa kinh đô của An Dương Vương vử xuôi trên đất Cổ Loa phía bên kia sông Hồng.
Toà n cảnh Hồ Hoà n Kiếm. (Ảnh: TTXVN)
Trải qua hơn một thiên niên kỷ Bắc thuộc, các cuộc nổi dậy của Hai Bà Trưng đã chọn đất Mê Linh, cũng ở bên kia sông là m kinh đô; riêng Lý Bí nổi dậy xưng đế thì tiến sát đến Hồ Tây và dòng Tô Lịch đã ở bên nà y sông. Tuy nhiên, thời gian ngắn ngủi của các triửu vua nà y khiến chúng ta hiểu rất sơ sà i với những dấu ấn mử nhạt vử những địa thế mang tên các địa danh nà y. Nhưng điửu đáng được phân tích là việc Cao Biửn đã chọn vùng đất đã được định danh bằng một biểu trưng cho một không gian vốn mang tên Long Đỗ (tức Rốn Rồng) để đắp thà nh Đại La là m trị sở cho chế độ cai trị của các triửu Phương Bắc, xếp nước ta chỉ như các quận huyện của Trung Hoa. Cao Biửn không chỉ là một viên quan cai trị mà còn là một nhà phong thủy được lưu danh trong sử sách.
Thế nhưng, khi Ngô Vương Quyửn, người sau nà y được nhà yêu nước Phan Bội Châu tôn vinh là vị Tổ trung hưng thứ nhất của nửn tự chủ Đại Việt nhử chiến công đánh thắng giặc Nam Hán trên sông Bạch Đằng (938), đã khẳng định vị thế nửn tự chủ của nước ta để thoát ly ra khửi chế độ cai trị như quận huyện của phương Bắc, đã chọn Cổ Loa để là m kinh đô như sự trở vử với thời đại tiửn Bắc thuộc của An Dương Vương gắn với nhà nước à‚u Lạc từ hơn thiên niên kỷ trước...
Một nửn tự chủ mới được tái lập sau hơn ngà n năm Bắc thuộc đã phải trải qua những thử thách khắc nghiệt để tạo nên sự thống nhất quốc gia, và tôi luyện thêm sức đử kháng với mối đe doạn truyửn kiếp. Đinh Tiên Hoà ng dẹp loạn sứ quân và Lê Đại Hà nh một lần nữa đánh thắng giặc Tống cũng trên sông Bạch Đằng. Trong bối cảnh ấy, kinh đô nước ta phải lui vử phương Nam tìm nơi có địa thế thích hợp và Hoa Lư chính là nới các triửu Đinh và Tiửn Lê lựa chọn. à thức được sự trưởng thà nh của dân tộc, Lý Công Uẩn đã quyết định dời đô khửi Hoa Lư, nhưng không trở vử Cổ Loa mà lại quyết định chọn chính thà nh Đại La, trị sở nửn cai trị của phương Bắc năm xưa. Hơn thế, trong Chiếu dời đô, Lý Thái Tổ còn khẳng định thà nh Đại La nằm chính giữa trời đất có cái thế rồng cuộn hổ ngồi, đã đúng ngôi nam bắc đông tây, lại tiện thế nhìn sông tựa núi... và nhiửu yếu tố được coi là đắc địa khác để kết luận rằng đáng đặt là m kinh sư cho muôn đời."
Điửu đáng nói hơn nữa là , cũng trong văn kiện mang tính chất lịch sử nà y, Lý Thái Tổ vẫn trân trọng gọi viên quan cai trị là Cao Vương, cùng ca ngợi thà nh Đại La xem khắp đất Việt đó là đất danh thắng, thật là đô hội trọng yếu để bốn phương sum họp và là đô thà nh bậc nhất." Đó chính là cái khôn ngoan và sáng suốt của người đứng đầu nhà nước Đại Việt đã tạo dựng nên nửn Văn hiến Thăng Long, tạo nên bản lĩnh để gìn giữ nửn tự chủ trường tồn.
Vấn đử quan trọng hơn cả liên quan đến việc chọn Đại La là m kinh đô chính là cái thông điệp mà Lý Thái Tổ đã đưa ra khi chọn tên cho thà nh Đại La xưa thà nh Thăng Long." Nếu như những kẻ cái trị đã chọn ngay chính nơi Rốn Rồng," cái huyệt linh thiêng của một quốc gia nhằm trấn trị, thì cái tên Thăng Long (Rồng bay lên) chính là sự tự giải phóng để vươn lên chân trời tự do và thịnh vượng của quốc gia Đại Việt đã tự chủ. Từ cái thế đất rồng cuộn nay đã thà nh Rồng bay lên," đó cũng là niửm tự hà o của thời đại nhà Lý và cái ước vọng muôn đời của dân tộc và Thủ đô ta.
Tên gọi Thăng Longchính là biểu tượng cho bản lĩnh Đại Việt, phát huy ý chí tự chủ nhưng luôn biết cách hòa hiếu với thiên hạ và sẵn sà ng tiếp nhận cái hay, cái văn minh của thiên hạ để bồi đắp và là m phong phú nửn Văn hiến của mình. à”ng cha ta từng dựng đửn thử Thái thú Sử¹ Nhiếp và tôn là Nam Giao học tổ cũng thể hiện cái bản lĩnh ấy. Trên phương diện ngôn ngữ, hà ng ngà n năm chúng ta đã lấy Hán tự là m chữ viết chính thống của quốc gia, nhưng vẫn giữ nguyên ngôn ngữ nói vốn có của mình, nỗ lực sáng tạo ra chữ Nôm nhưng vẫn trân trọng giữ lấy thứ chữ của Thánh hiửn," sáng tạo ra âm Hán-Việt là m phong phú thêm kho tà ng ngôn ngữ dân tộc. Và chính cái ngôn ngữ nà y đã chuyển tải cái tư tưởng Nam Quốc sơn hà Nam đế cư hay Đại cáo Bình Ngô... cất lên từ Thăng Long, kinh đô của Đại Việt.
Cũng như vậy, ở thời cận đại, khi tiếp cận với văn minh phương Tây, dân ta đã chấp nhận cách ghi âm bằng chữ latinh vốn là công cụ truyửn giáo để biến thà nh thứ ngôn ngữ hiện đại phù hợp với nhu cầu tiến bộ của nhân dân và thời đại, coi đó là quốc ngữ." Và chính ngôn ngữ nà y cũng đã viết lên bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra chế độ Dân chủ Cộng hòa năm 1945, và o thời điểm Hà Nội trở lại với vị thế Thủ đô sau ngót một thế kỷ rườ¡i bị triửu Nguyễn chuyển dời và o Huế.
Chính cái bản sắc đô hội của Thăng Long-Hà Nội đã hội tụ được tinh hoa của cả nước và rộng hơn là của thiên hạ tạo nên nửn Văn hiến của Dân tộc Việt Nam trải suốt ngà n năm qua. Nó cũng tạo nên tính khoan dung của Thủ đô một quốc gia chịu đựng nhiửu đau khổ do chiến tranh và các cuộc chống trả ngoại xâm nhưng lại rất khoan dung, chuộng sự hòa hiếu. Truyửn thuyết Hoà n Kiếm và Hội thử sau chiến thắng Giặc Minh ở đầu thế kỷ 15 là một biểu tượng của Thăng Long xưa, nay là Hà Nội, và o cuối thế kỷ 20 đã được thế giới tôn vinh là Thà nh phố vì Hòa bình."
Thêm một bằng chứng, bản sắc nà y cũng thể hiện rất rõ khi nhận thấy trong lịch sử của mình, ngay sau khi dời đô ra Thăng Long, những công trình sớm nhất Lý Thái Tổ và các triửu kế tục xây dựng không phải là thà nh cao, hà o sâu hay những cung điện nguy nga, tráng lệ mà trước tiên là đắp đê Cơ Xá, chọn dựng tứ trấn," xây Chùa Diên Hựu (Chùa Một Cột), Văn Miếu rồi lập Quốc Tử Giám... Và nhiửu lần giặc đến đửu bử thà nh vử... quê, rồi dùng sức mạnh của thời gian, của toà n dân, kể cả sức trời đất (thủy thổ), sức của thần linh, và tà i nghệ đánh giặc của những anh tà i mà phục hồi nửn tự chủ, giải phóng Kinh đô.
Duy chỉ nhà Nguyễn, phá thà nh cũ xây lại theo kiểu phương Tây (Vauban) tưởng kiên cố mà khi giặc đến, cố thủ trong thà nh là những vị anh hùng lẫm liệt như các vị Tổng đốc Nguyễn Tri Phương hay Hoà ng Diệu đửu phải tuẫn tiết chết theo thà nh. Thăng Long-Hà Nội đến nay bước và o tuổi ngà n năm, tính từ thời điểm Đức Lý Thái Tổ định đô và o năm 1010. Nhưng Thà nh phố Hà Nội hiểu theo thiết chế của một đô thị hiện đại đến nay mới ngoà i 12 giáp (122 tuổi), kể từ khi Vua Đồng Khánh ra sắc dụ trao một phần tỉnh Hà Nội (ứng với không gian của Thăng Long trước thời Nguyễn) cho thực dân Pháp là m nhượng địa (cùng với Hải Phòng và Đà Nẵng-Tourane) để lập thà nh phố theo mẫu hình hiện đại của phương Tây. Những thiết chế hạ tầng của một đô thị, kể từ đó mới hình thà nh.
Từ một Kẻ Chợ nơi các là ng nghử cùng phường hội tứ xứ đến buôn bán phục vụ cho bộ máy cai trị của triửu đình (thà nh) và những cư dân của nó (thị và thị dân), đã hình thà nh một đô thị ngà y cà ng có sức sống cùng với quá trình thâm nhập của phương thức sản xuất mới của xã hội hiện đại. Phải nói rằng bên cạnh những cổ tích ngoà i một ít dấu tích thà nh quách và chủ yếu là những cơ sở tôn giáo, tín ngườ¡ng thì diện mạo của Hà Nội nghìn năm đọng lại sâu đạm nhất là những khu phố cổ và công trình kiến trúc đửu có dấu ấn của văn minh phương Tây gắn với thời Pháp thuộc.
Đã có lúc chúng ta chỉ nhìn nhận cái di sản đó bằng lập trường chính trị nên đã là m mất đi không ít những giá trị mà đến nay ta ứng xử như một di sản của văn hóa phương Tây, một thà nh phần giá trị của Hà Nội ngà y nay. Chủ nghĩa thực dân mang đến một nửn chính trị phản động, nhưng quá trình giao thoa và tiếp nhận nửn văn minh Tây phương tạo ra diện mạo một đô thị hoà n toà n mới và có xu thế hiện đại. Chống chủ nghĩa thực dân, già nh lại nửn độc lập chính trị, thống nhất toà n vẹn lãnh thổ, là mục tiêu phấn đấu và chiến đấu hơn một thế kỷ dẫn đến cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945, đánh đổ cả chế độ quân chủ từng tồn tại ngà n năm lẫn chế độ thuộc địa cai trị ngót trăm năm. Và một thà nh tựu của cuộc cách mạng nà y lại cũng chính là việc khôi phục lại vị thế Thủ đô của Hà Nội.
Và sự phục hưng nà y gắn với tên tuổi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và thời đại Hồ Chí Minh. Nửn văn hóa của Thủ đô hiện đại, được xây dựng trong bối cảnh vừa đánh đổ cái cũ lại phải bắt tay và o xây dựng cái mới trong bối cảnh chiến tranh liên miên hơn ba thập kỷ tiếp theo và trong quá trình dân tộc ta hội nhập với thế giới trong một bối cảnh khắc nghiệt của đời sống chính trị quốc tế phức tạp đã để lại cho ta nhiửu bà i học sâu sắc. Biết phân biệt rạch ròi giữa cái cũ và cái mới theo tinh thần mà Bác Hồ đã vạch ra rất rõ ngay từ ngà y đầu xây dựng nửn Dân chủ-Cộng hòa không phải cái gì cũ cũng bử hết, không phải cái gì cũng là m mới. Cái gì cũ mà xấu thì phải bử... cái gì cũ mà không xấu nhưng phiửn phức thì ta phải sửa đổi lại cho hợp lý...
Cái gì cũ mà tốt thì phải phát triển thêm... Cái gì mới mà hay thì ta phải là m...( Đời Sống mới -1947). Kể từ sau khi Hà Nội được giải phóng, chúng ta mới có điửu kiện thực sự để xây dựng Thủ đô. Thực hiện cái nguyên lý trên trong bối cảnh đất nước chưa giải phóng, vẫn phải tiếp tục mục tiêu thống nhất đất nước không phải là đơn giản. Không chỉ có chiến tranh mà kể cả những ấu trĩ trong nhận thức và hà nh động gắn với công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đã là m mai một phần nà o nhiửu giá trị tốt đẹp của Hà Nội văn hiến, tạo nên không ít những thay đổi tiêu cực và là m mất mát phần nà o những tà i sản văn hóa của Thủ đô.
Tuy nhiên sức trưởng thà nh của Hà Nội vươn lên trong khói lửa chiến tranh vử một chủ nghĩa anh hùng cách mạng với những thử thách tiêu biểu của 60 ngà y đêm quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh (cuối 1946 đầu 1947) hay 12 ngà y đêm Điện Biên Phủ trên không(12/1972), và những thà nh tựu xây dựng Thủ đô Hà Nội từ một thà nh phố tiêu thụ thời thuộc địa, thà nh một trung tâm kinh tế, văn hóa, chính trị của cả nước, đã tạo nên những nửn tảng văn hóa mới gắn với quá trình hiện đại hóa, công nghiệp hóa và hội nhập với văn hóa thế giới.
Đó là những thay đổi to lớn mà những thế kỷ trước trong tiến trình ngà n năm không thể có được. Hà Nội từng bước mở rộng vử không gian, thu hút các nguồn nhân lực và dân cư từ cả nước. Mối giao lưu văn hóa đươc kích thích bởi những thà nh tựu của công nghệ tác động mạnh mẽ theo cả hai chiửu và o diện mạo và đời sống văn hóa của Thủ đô đã tạo nên sự sôi động nhưng cũng nhiửu thách đố cho việc phát huy và phát triển những giá trị Văn hiến vốn là cốt cách truyửn thống của Thăng Long-Hà Nội.
Nếu như tinh thần của Nghị quyết 5 khóa 8 của Đảng đã khẳng định mục tiêu xây dựng một nửn văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, cùng với việc ban hà nh Luật Di sản văn hóa đã góp phần và o việc gìn giữ và phát huy những giá trị của quá khứ, khắc phục được những sai sót một thời, góp phần tạo nên những diện mạo tương xứng phần nà o với một Thủ đô ngà n năm tuổi. Và o thời điểm nà y, khi Thủ đô Hà Nội, theo nghị quyết của Quốc hội đã mở rộng không gian gấp ba lần và ôm và o trong lòng nó cả một vùng đất già u truyửn thống của văn hóa Xứ Đoà i, thì thách đố không đơn giản chỉ là một con tính cộng mà phải tạo ra nguồn lực là m tăng thêm hà m lượng và sắc thái văn hóa của Thủ đô.
Tuy nhiên những giá trị văn hóa truyửn thống dù quan trọng đến đâu thì trên mặt bằng chung của một đô thị giử đây đã trở nên rất lớn, tầm mức thế giới, vấn đử cần được ưu tiên hà ng đầu vì nó vừa là một khiếm khuyết của quá khứ vừa là đòi hửi của hiện tại và tương lai chính là văn hóa đô thị." Trong lịch sử nhân loại, sự hình thà nh các đô thị gắn với nhiửu nhân tố vử chính trị, kinh tế, cư dân nhưng cốt lõi của nó chính là một mô hình (thiết chế xã hội) mang yếu tố dân chủ, khác biệt với thiết chế các công xã, là ng xã cổ truyửn và phổ biến. Xuất phát từ nửn tảng của một nửn kinh tế và xã hội tiêu nông, cái thử thách đầu tiên của các đô thị ở nước ta là nguy cơ bị nông thôn hóa đời sống và văn hóa đô thị.
Hà Nội đã từng và có thể vẫn đang chịu tác động của nguy cơ đó, đặc biệt khi mới dung nạp và o không gian Thủ đô những thà nh phần và nhân tố phi đô thị rất lớn vử con người, cơ sở hạ tầng cũng như lối sống và tập quán. Nhìn và o mọi mặt hoạt động của Hà Nội, chúng ta thấy phổ biến những biểu hiện của nguy cơ nà y, từ lĩnh vực xây dựng, đến hoạt động thương mại, giao thông cho đến cung cách sinh hoạt và là m việc từ người công chức đến người dân thường.
Lại nhớ lại thời kử³ Hà Nội trở thà nh Thủ đô cả nước Việt Nam hiện đại, ngay sau khi Tuyên ngôn Độc lập, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên những nhiệm vụ cấp bách phải thực hiện. Bên cạnh những nhiệm vụ như chống giặc đói, giặc dốt, tổ chức tổng tuyển cử để xây dựng Hiến pháp, vị nguyên thủ quốc gia đã đử ra một nhiệm vụ cấp bách là phải giáo dục lại nhân dân." Để trở thà nh một công dân của nước Việt Nam độc lập không thể tự nhiên mà thà nh sau một biến cố chính trị. Nó đòi hửi sự giáo dục dà y công và lâu dà i. Đáp ứng điửu đó Bác đã phát động Đời Sống Mới (1946), Sửa đổi lối là m việc (1948) rồi Người tốt việc tốt...
Liên tưởng đến việc xây dựng Thủ đô, vấn đử con người vẫn là hà ng đầu, không thể có một thà nh phố hiện đại của những con người chưa hiện đại. Vì thế việc xây dựng văn hóa đô thị thực sự trở thà nh một nhu cầu cấp bách, nó sẽ quyết định thà nh công của mục tiếu xây dựng một thủ đô hiện đại và đậm đà sắc thái của một Thủ đô đã có bử dà y lịch sử ngà n năm tuổi đang hội nhập mạnh mẽ với thế giới./.