Tuy nhiên, đến thời kử³ băng tan, biển tiến sâu và o đất liửn, các cư dân của thời đại đồ đá mới bị đẩy lùi lên vùng núi. Phải tới khoảng 4000 “ 5.000 năm trước Công Nguyên, con người mới quay lại sinh sống ở nơi đây. Các hiện vật khảo cổ giai đoạn tiếp theo, từ đầu thời đại đồ đồng đến đầu thời đại đồ sắt, minh chứng cho sự hiện diện của Hà Nội ở cả bốn thời đại văn hóa: Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun và Đông Sơn. Sự xuất hiện của thà nh Cổ Loa ghi dấu vùng đất Thăng Long lần đầu tiên trở thà nh một đô thị trung tâm vử chính trị và xã hội.
Năm 208 TCN, nước à‚u Lạc được thà nh lập trên cơ sở tiếp nối nước Văn Lang thời các vua Hùng - một sự kiện có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc. Nước à‚u Lạc ra đời là sự hợp nhất của hai bộ tộc Lạc Việt và à‚u Việt, thể hiện bước phát triển mới của quốc gia cổ đại người Việt. Thục Phán An Dương Vương - vua nước à‚u Lạc, trong một bối cảnh và yêu cầu mới, đã thể hiện tầm nhìn của một nhà chính trị chiến lược khi quyết định dời vị trí trung tâm đất nước từ vùng Phong Châu ngà y nay xuống vùng đồng bằng - chọn Cổ Loa là m nơi đóng đô.
Thà nh Thăng Long
Quyết định chọn vùng đất Cổ Loa là m kinh đô, An Dương Vương và quân dân à‚u Lạc bấy giử cũng đồng thời bắt tay và o một nỗ lực phi thường: chỉ trong một thời gian ngắn, một toà thà nh đồ sộ và độc đáo đã hoà n thà nh và được thần thoại hóa với sự tích Thần Kim Quy. Đó là thà nh Cổ Loa, thà nh ốc, có thà nh cao hà o sâu, có thuỷ bộ liên hoà n, có trong ngoà i phối hợp... Cùng sự đoà n kết quân dân trên dưới một lòng, toà thà nh vững chắc nà y đã khiến quân xâm lược phương Bắc nhiửu phen đại bại.
Nhưng rồi cuối cùng thà nh Cổ Loa - nước à‚u Lạc đã không đứng vững được trước kẻ thù xâm lược ngoại bang. Thà nh chắc đấy, vũ khí lợi hại đấy, nhưng từ vua quan đến chúng dân à‚u Lạc - tổ tiên ta buổi đầu dựng nước - vẫn còn quá chất phác, hồn nhiên, mà kẻ thù lại lắm xảo quyệt, mưu mô. Nguyên nhân mất nước dồn cả và o một lỗi lầm của Mửµ Châu nhẹ dạ tin người. An Dương Vương xé lòng khi phải tuốt gươm chém đầu con gái, nhưng đó cũng chính là thời điểm người Việt nhận thức sâu sắc phải là m gì để tồn tại và tiến lên trong một bối cảnh mà xâm lăng từ bên ngoà i sớm trở thà nh áp lực. Chỉ có điửu, cha ông ta đã phải trả giá quá đắt cho bà i học lịch sử nà y. Nước mất, nhà tan, cơ đồ à‚u Lạc chìm đắm trong đêm trường Bắc thuộc nghìn năm.
Các thế lực phong kiến phương Bắc, sau khi tiêu diệt nước Nam Hán của Triệu Đà , trong một thời gian dà i, vẫn chọn Cổ Loa là m thủ phủ cho vùng đất phương Nam. Cổ Loa vẫn sừng sững đó một toà thà nh - chứng tích hà o hùng của thời mở nước. Người Việt vẫn hướng vử Cổ Loa mà tăng thêm nghị lực, tăng thêm sức mạnh trong cuộc đấu tranh bửn bỉ khôi phục nửn độc lập dân tộc. Gần 1.000 năm chịu sự áp bức nô dịch của phong kiến phương Bắc là gần 1.000 năm người Việt ngoan cường chống trả, không chịu để bị đồng hóa, không chịu để mất nước.
Chiến thắng Bạch Đằng lịch sử năm 938 đã kết thúc hơn một nghìn năm mất nước. Ngô Quyửn, kế thừa thà nh quả của hơn ba mươi năm dựng nửn tự chủ thời họ Khúc, họ Dương, đã có đủ sức mạnh nhấn chìm hà ng vạn quân Nam Hán xuống sông Bạch Đằng, khẳng định dứt khoát nửn độc lập của người Việt. Trở vử Cổ Loa đóng đô, Ngô Vương Quyửn muốn nối lại quốc thống, chắp lại mạch dòng. ý thức đó của Ngô Quyửn đủ thấy dòng chảy tinh thần Việt không hử gián đoạn, trái lại nó cà ng được củng cố trước những thử thách khắc nghiệt trong hơn một nghìn năm mất nước. Thà nh trì được bồi trúc thêm, điện đà i được xây dựng mới. Triửu đình Cổ Loa tuy mới được thiết lập nhưng cũng đã hiện rõ vẻ bử thế đế vương.
Nhưng chính quyửn Ngô Vương Quyửn không duy trì được lâu dà i. Sau khi Ngô Quyửn mất (năm 944), triửu đình vắng đi người đủ tà i đủ đức, đủ công huân để các hà o trưởng anh hùng nhất khoảnh tự nguyện thần phục. Chính quyửn Cổ Loa tan rã (năm 965), đất nước loạn lạc, mười hai sứ quân tung tác khắp nơi.
Nửn độc lập vừa già nh lại được có nguy cơ đổ vỡ khi phải đối diện với một nhà Tống vừa mới lên cầm quyửn. Đinh Bộ Lĩnh cử lau dẹp loạn, thống nhất sơn hà , lấy kinh đô ở vùng Hoa Lư (năm 968). Trải các nhà Đinh - Tiửn Lê, với nhiửu nỗ lực lớn lao, quốc gia độc lập và thống nhất Đại Cồ Việt được xác lập vững chắc. Trên cơ sở đó, năm 1010 Nhà vua Lý Thái Tổ quyết định dời đô ra thà nh Đại La và đổi tên là thà nh Thăng Long. Một kỷ nguyên mới bắt đầu.
Đế đô Cổ Loa đã là m trọn vai trò lịch sử vĩ đại khơi dòng và nối dòng, để đất nước quá độ qua Hoa Lư, rồi vững và ng ở vùng đất Kinh Bắc long bà n hổ cứ. Từ Cổ Loa đến Thăng Long và Hà Nội - thủ đô nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngà y nay, một hà nh trình lịch sử không phải chỉ một nghìn năm.
Lòng đất Cổ Loa là nơi ẩn dấu nhiửu tầng văn hoá, từ Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun đến Đông Sơn, trở thà nh nơi hội tụ của Văn minh sông Hồng, với hà ng loạt di chỉ khảo cổ trên địa bà n Cổ Loa và vùng phụ cận, trong đó không ít đã đi và o bản đồ khảo cổ học Việt Nam nổi tiếng trong nước và thế giới đặc biệt là hệ thống tường thà nh, kử¹ thuật chế tác vũ khí (nử thần).
Cổ Loa và khu vực xung quanh Hà Nội đã và sẽ là mảnh đất hấp dẫn đối với các nhà khảo cổ học để lật tìm vử quá khứ xa xưa của vùng đất nà y, cũng là hình ảnh xa xưa của Việt Nam trong những ngà y đầu của quá trình dựng nước. Tiửm ẩn mà cũng là tiửm năng, là di sản khi mỗi tấc đất Cổ Loa đửu ẩn chứa những trang quá khứ kử³ bí và hấp dẫn./.