Ở Sà i Gòn, tôi đã đọc tại quán Guitare Gỗ do nhạc sĩ Châu Đăng Khoa đệm đà n và viết một ca khúc phụ họa. Như vậy là gần nửa thế kỷ bà i thơ viết vử Hà Nội, tại Hà Nội vẫn chưa trở vử Hà Nội. Và tôi vẫn mong đợi một dịp được lần đầu đọc Em ơi, Hà Nội phố giữa thủ đô.
Tháng chạp năm 1972, khi B-52 của Mử¹ bắn phá thủ đô với lời hăm he đưa Hà Nội trở lại thời kử³ đồ đá!, tôi khởi viết những câu đầu tiên: Em ơi, Hà Nội phố... Ta còn em, mùi hoà ng lan, ta còn em mùi hoa sữa... Điệp từ Ta còn em, ta còn em... được lặp lại trong từng đoạn của bà i thơ. Có người nghĩ điệp từ nà y có ý nghĩa thách thức với lời hăm dọa của ông Nixon. Tôi không có ý đó, chỉ thấy lòng mình chùng xuống vì âu lo trước cảnh tượng đất đai Hà Nội bị bom đạn cà y xới và máu người Hà Nội đổ trên phố phường nên đọc một câu niệm chú để tự trấn an. Ta còn em... là còn những hoà i niệm yêu thương của tôi vử Hà Nội mà đôi lần khi trong trạng thái cần nương tựa, an ủi, tôi lại tìm vử.
Nhưng Em ơi, Hà Nội phố không phải là một lời thủ thỉ tự tình, đó là một tiếng kêu thương tha thiết... Tháng chạp bi tráng năm ấy, những sự việc hằng ngà y đã khắc ghi những đường rãnh trong ký ức, giữ lại cho con người một nỗi nhớ xót xa, sâu đậm. Chỉ một đêm xuống phố Khâm Thiên sau trận bom, nghe tiếng than khóc của dân phố, nhìn những và nh khăn tang trắng xóa trong đêm và ngửi mùi hương cúng đã hình thà nh ngay hoà i niệm để một đời không thể nà o quên. Tôi cũng phải nói thêm điệp từ Ta còn em... còn có nghĩa ta mất em....
Đó là sự tiếc nuối vử những gì thật Hà Nội không còn nữa! Không chỉ do chiến tranh mà có thể vì những sai lầm, những vô ý, vô tình của người đời, không ngoại trừ sự quên lãng của thời gian, đã gây ra những đổ vỡ không thể hà n gắn được. Chỉ cần mấy câu thơ của người xưa Dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo, nửn cũ lâu đà i bóng tịch dương... cũng là m chúng ta rung động huống hồ những xót đau, mất mát thuộc vử tâm linh, một thứ để thử phụng, khiến con người có thể thí mạng để bảo vệ, gìn giữ. Và tinh thần của người Hà Nội trong tháng chạp năm ấy đã chứng tử rõ rà ng.
Tôi đã sống một mình trên căn gác suốt 12 ngà y đêm khốc liệt của Hà Nội. Bao hoà i niệm thật đẹp mà tôi đã có trong quãng thời gian được gọi là chà ng trai Hà Nội đã trở vử trên căn gác, tại một khu trắng triệt để sơ tán vì gần Nhà máy điện Yên Phụ, một mục tiêu oanh kích. Những hình ảnh, những ngôn từ dồn dập kéo đến, đan xen, chồng chéo, không theo một thứ tự thời gian, không gian.
Tôi như đang trong một giấc mơ giữa ban ngà y với đôi mắt mở! Em ơi, Hà Nội phố với 25 khổ thơ đã ra đời trong khoảng cách những hồi còi hụ trên nóc Nhà hát Lớn, với giọng Hà Nội thật chuẩn của cô phát thanh viên báo tin những đợt B-52 và o thà nh phố. Tôi ghi lại một cách vội và ng, theo sự tình cử, bất chợt, không xếp đặt. Tất nhiên, trong một quá trình dà i dặc nửa thế kỷ, bà i thơ không thể nằm yên trong ngăn kéo mà luôn cựa quậy, bắt tôi phải chỉnh sửa nhiửu lần. Nhiửu khi có và i ly rượu ngà ngà lại chợt nhớ, chợt thương một nỗi niửm, chợt tìm thấy một dáng, một hình, một con chữ cần thêm, cần bớt.
Tôi cũng thường bử công chép cả bà i thơ dà i dặc để tặng ai đó, nhưng khi khách ra vử lại hí hoáy sửa lại vì trong lúc chép tặng chợt phát hiện một câu, một chữ chưa vừa ý. Do đó Em ơi, Hà Nội phố đã thà nh tam sao thất bản, đến mức tác giả cũng không sao phân biệt được! Cho đến năm 1985, một lần gặp Phú Quang, một đoạn thơ đã được phổ nhạc. Khi ca khúc Em ơi, Hà Nội phố đã nổi tiếng với nhiửu khen tặng, có người đến nói vử giá trị phần ca từ của tôi, nhưng tôi vẫn nghĩ sự xứng đáng thuộc vử Phú Quang với những giai điệu mượt mà , du dương quen thuộc của anh; cả vử công lao của Phú Quang với ca khúc ấy đã giới thiệu một bà i thơ còn lận đận, chưa ra đời! Mấy câu thơ của tôi, một tâm tư mang tính cá nhân, là nỗi đau thầm lặng, nỗi buồn da diết riêng mang không có tính cộng đồng. Ngà y ấy, có một nhà thơ lớn khi đọc bà i thơ nà y đã thật lòng khuyên tôi không nên phổ biến vì có thể chuốc vạ và o thân. Tôi cũng mệt mửi vì nhiửu sự phiửn hà văn chương của giai đoạn ấy nên cũng nghe lời bử xó.
Tôi hi vọng lần đọc đầu tiên bà i thơ ở Hà Nội cũng là đọc bản chính thức cuối cùng của Em ơi, Hà Nội phố. Bởi với tuổi 85, hà nh trình đi qua trần gian, hay nói theo Trịnh Công Sơn là quãng đời ở trọ trần gian của tôi cũng đã quá dà i so với bao nhiêu bè bạn. Giữa Hà Nội hôm nay bỗng nhiên tôi nghĩ đến những nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ, họa sĩ cùng đứng với tôi trong ban chấp hà nh đầu tiên của Chi hội Văn nghệ Nam bộ thà nh lập từ năm 1952 giữa rừng U Minh, như các anh Diệp Minh Châu, Hà Mậu Nhai, Đoà n Giửi, Quách Vũ, Dương Tử Giang, Huử³nh Văn Gấm, Chi Lăng, Ngọc Cung, Trương Bỉnh Tòng...
Trong số đó, có người tập kết ra Hà Nội đã nằm lại trong lòng đất thủ đô, những người ở lại miửn Nam bị bắt bớ, tù đà y cũng đã qua đời. Các anh ấy chỉ biết Hà Nội trong tưởng tượng, cà ng không thể hình dung có một Hà Nội của thơ như hôm nay với người cuối cùng còn sót lại của ban chấp hà nh xa xưa trở vử Hà Nội đọc thơ! Tôi cũng nghĩ tới những người bạn đã kết thân khi tôi từ miửn Nam trở vử Hà Nội năm 1956, đó là các anh Tử Phác, Đặng Đình Hưng, Trần Dần, Lê Đạt, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Sáng, Dương Bích Liên, Phùng Quán, Phùng Cung, Hoà ng Cầm, Hữu Loan... tất cả các anh ấy đửu có một số phận không may và đã lần lượt kéo nhau ra đi vử Bến lạ (tên một tập thơ của Đặng Đình Hưng). Và tôi lại trở thà nh một trong những kẻ sống sót để thụ hưởng những gì mà đáng lẽ các anh ấy đửu được hưởng!