Tôi viết bài thơ Em ơi, Hà  Nội phố

Chuyển động Hà Nội - Ngày đăng : 10:39, 30/05/2011

(NHN) Tôi viết Em ơi, Hà  Nội phố từ năm 1972 nhưng trong một thời gian dà i, vì những lý do riêng, bà i thơ chưa đến với độc giả. Cho đến năm 2009, nguyên tác bà i thơ mới in trong tập Thơ Phan Vũ. Ở Huế, tôi đã đọc bà i thơ dưới ánh sáng của một ngọn nến, trong một căn nhà  cổ cho một số bạn Huế yêu thơ.

Ở Sà i Gòn, tôi đã đọc tại quán Guitare Gỗ do nhạc sĩ Châu Аăng Khoa đệm đà n và  viết một ca khúc phụ họa. Như vậy là  gần nử­a thế kỷ bà i thơ viết vử Hà  Nội, tại Hà  Nội vẫn chưa trở vử Hà  Nội. Và  tôi vẫn mong đợi một dịp được lần đầu đọc Em ơi, Hà  Nội phố giữa thủ đô.

Tháng chạp năm 1972, khi B-52 của Mử¹ bắn phá thủ đô với lời hăm he đưa Hà  Nội trở lại thời kử³ đồ đá!, tôi khởi viết những câu đầu tiên: Em ơi, Hà  Nội phố... Ta còn em, mùi hoà ng lan, ta còn em mùi hoa sữa... Аiệp từ Ta còn em, ta còn em... được lặp lại trong từng đoạn của bà i thơ. Có người nghĩ điệp từ nà y có ý nghĩa thách thức với lời hăm dọa của ông Nixon. Tôi không có ý đó, chỉ thấy lòng mình chùng xuống vì âu lo trước cảnh tượng đất đai Hà  Nội bị bom đạn cà y xới và  máu người Hà  Nội đổ trên phố phường nên đọc một câu niệm chú để tự trấn an. Ta còn em... là  còn những hoà i niệm yêu thương của tôi vử Hà  Nội mà  đôi lần khi trong trạng thái cần nương tựa, an ủi, tôi lại tìm vử.

Tôi viết bài thơ Em ơi, Hà  Nội phố

Nhưng Em ơi, Hà  Nội phố  không phải là  một lời thủ thỉ tự tình, đó là  một tiếng kêu thương tha thiết... Tháng chạp bi tráng năm ấy, những sự việc hằng ngà y đã khắc ghi những đường rãnh trong ký ức, giữ lại cho con người một nỗi nhớ xót xa, sâu đậm. Chỉ một đêm xuống phố Khâm Thiên sau trận bom, nghe tiếng than khóc của dân phố, nhìn những và nh khăn tang trắng xóa trong đêm và  ngử­i mùi hương cúng đã hình thà nh ngay hoà i niệm để một đời không thể nà o quên. Tôi cũng phải nói thêm điệp từ Ta còn em... còn có nghĩa ta mất em....

Аó là  sự tiếc nuối vử những gì thật Hà  Nội không còn nữa! Không chỉ do chiến tranh mà  có thể vì những sai lầm, những vô ý, vô tình của người đời, không ngoại trừ sự quên lãng của thời gian, đã gây ra những đổ vỡ không thể hà n gắn được. Chỉ cần mấy câu thơ của người xưa Dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo, nửn cũ lâu đà i bóng tịch dương... cũng là m chúng ta rung động huống hồ những xót đau, mất mát thuộc vử tâm linh, một thứ để thử phụng, khiến con người có thể thí mạng để bảo vệ, gìn giữ. Và  tinh thần của người Hà  Nội trong tháng chạp năm ấy đã chứng tử rõ rà ng.

Tôi đã sống một mình trên căn gác suốt 12 ngà y đêm khốc liệt của Hà  Nội. Bao hoà i niệm thật đẹp mà  tôi đã có trong quãng thời gian được gọi là  chà ng trai Hà  Nội đã trở vử trên căn gác, tại một khu trắng triệt để sơ tán vì gần Nhà  máy điện Yên Phụ, một mục tiêu oanh kích. Những hình ảnh, những ngôn từ dồn dập kéo đến, đan xen, chồng chéo, không theo một thứ tự thời gian, không gian.

Tôi như đang trong một giấc mơ giữa ban ngà y với đôi mắt mở! Em ơi, Hà  Nội phố với 25 khổ thơ đã ra đời trong khoảng cách những hồi còi hụ trên nóc Nhà  hát Lớn, với giọng Hà  Nội thật chuẩn của cô phát thanh viên báo tin những đợt B-52 và o thà nh phố. Tôi ghi lại một cách vội và ng, theo sự tình cử, bất chợt, không xếp đặt. Tất nhiên, trong một quá trình dà i dặc nử­a thế kỷ, bà i thơ không thể nằm yên trong ngăn kéo mà  luôn cựa quậy, bắt tôi phải chỉnh sử­a nhiửu lần. Nhiửu khi có và i ly rượu ngà  ngà  lại chợt nhớ, chợt thương một nỗi niửm, chợt tìm thấy một dáng, một hình, một con chữ cần thêm, cần bớt.

Tôi viết bài thơ Em ơi, Hà  Nội phố

Tôi cũng thường bử công chép cả bà i thơ dà i dặc để tặng ai đó, nhưng khi khách ra vử lại hí hoáy sử­a lại vì trong lúc chép tặng chợt phát hiện một câu, một chữ chưa vừa ý. Do đó Em ơi, Hà  Nội phố đã thà nh tam sao thất bản, đến mức tác giả cũng không sao phân biệt được! Cho đến năm 1985, một lần gặp Phú Quang, một đoạn thơ đã được phổ nhạc. Khi ca khúc Em ơi, Hà  Nội phố đã nổi tiếng với nhiửu khen tặng, có người đến nói vử giá trị phần ca từ của tôi, nhưng tôi vẫn nghĩ sự xứng đáng thuộc vử Phú Quang với những giai điệu mượt mà , du dương quen thuộc của anh; cả vử công lao của Phú Quang với ca khúc ấy đã giới thiệu một bà i thơ còn lận đận, chưa ra đời! Mấy câu thơ của tôi, một tâm tư mang tính cá nhân, là  nỗi đau thầm lặng, nỗi buồn da diết riêng mang không có tính cộng đồng. Ngà y ấy, có một nhà  thơ lớn khi đọc bà i thơ nà y đã thật lòng khuyên tôi không nên phổ biến vì có thể chuốc vạ và o thân. Tôi cũng mệt mửi vì nhiửu sự phiửn hà  văn chương của giai đoạn ấy nên cũng nghe lời bử xó.

Tôi hi vọng lần đọc đầu tiên bà i thơ ở Hà  Nội cũng là  đọc bản chính thức cuối cùng của Em ơi, Hà  Nội phố. Bởi với tuổi 85, hà nh trình đi qua trần gian, hay nói theo Trịnh Công Sơn là  quãng đời ở trọ trần gian của tôi cũng đã quá dà i so với bao nhiêu bè bạn. Giữa Hà  Nội hôm nay bỗng nhiên tôi nghĩ đến những nhà  văn, nhà  thơ, nhạc sĩ, họa sĩ cùng đứng với tôi trong ban chấp hà nh đầu tiên của Chi hội Văn nghệ Nam bộ thà nh lập từ năm 1952 giữa rừng U Minh, như các anh Diệp Minh Châu, Hà  Mậu Nhai, Аoà n Giửi, Quách Vũ, Dương Tử­ Giang, Huử³nh Văn Gấm, Chi Lăng, Ngọc Cung, Trương Bỉnh Tòng...

Trong số đó, có người tập kết ra Hà  Nội đã nằm lại trong lòng đất thủ đô, những người ở lại miửn Nam bị bắt bớ, tù đà y cũng đã qua đời. Các anh ấy chỉ biết Hà  Nội trong tưởng tượng, cà ng không thể hình dung có một Hà  Nội của thơ như hôm nay với người cuối cùng còn sót lại của ban chấp hà nh xa xưa trở vử Hà  Nội đọc thơ! Tôi cũng nghĩ tới những người bạn đã kết thân khi tôi từ miửn Nam trở vử Hà  Nội năm 1956, đó là  các anh Tử­ Phác, Аặng Аình Hưng, Trần Dần, Lê Аạt, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Sáng, Dương Bích Liên, Phùng Quán, Phùng Cung, Hoà ng Cầm, Hữu Loan... tất cả các anh ấy đửu có một số phận không may và  đã lần lượt kéo nhau ra đi vử Bến lạ (tên một tập thơ của Аặng Аình Hưng). Và  tôi lại trở thà nh một trong những kẻ sống sót để thụ hưởng những gì mà  đáng lẽ các anh ấy đửu được hưởng!

Vnn