Quê và em - nguồn cảm hứng lớn trong thơ Trần Quang Quý

Vũ Nho| 05/03/2020 09:31

Quê và em - nguồn cảm hứng lớn trong thơ Trần Quang Quý
Nhà thơ Trần Quang Quý
Tập thơ 45 bài của Trần Quang Quý gồm hai bài được viết năm 2014, hai bài viết năm 2015, hai bài viết năm 2016, mười ba bài viết năm 2017. Như vậy, hơn một nửa viết trong năm 2018 và 2019. Có khi ở cuối bài còn ghi rõ cả giờ phút, ngày, tháng, năm, địa điểm thành thơ, sự kiện gắn với bài thơ (Tết, áp Tết, ngày tam nhật Mẹ, mùa Vu Lan, Ngày vợ ở bệnh viện Hà Nội, Ngày chuyển gió,...). Rất chuyên nghiệp và cũng rất tiện cho người tìm hiểu khi muốn khám phá hoàn cảnh thành thơ của mỗi bài.

Không phải vì dòng chữ như là lời đề từ của tác giả “Nguồn cội và dòng chảy văn hóa của Sông Đà - Núi Tản huyền ảo, uy linh luôn là nơi chốn trở về trong tâm thức tôi” mà chúng tôi đặt nhan đề bài viết như thế. Nói quê là nguồn cảm hứng lớn trong thơ của Trần Quang Quý có vẻ như là sự hiển nhiên, bởi mỗi nhà thơ đều sinh ra ở một miền quê, có thể là trung du, đồng bằng hay miền núi, miền biển, và quê luôn luôn in dấu (dù đậm hay nhạt) trong thơ của họ. Tuy vậy, nói về quê hương với một cảm hứng thiêng liêng, thống thiết, coi quê hương như nguồn cảm hứng lớn thì không mấy ai. 

Trần Quang Quý từng ao ước và giãi bày:

Có lúc tôi muốn mang quê đặt vào Hà Nội
nhổ Hà Nội đặt vào quê
không sao lắp đặt trật tự tâm hồn
phong vị quê và dòng chảy văn hóa
ríu ran ngõ làng, những vườn cây xanh mướt phù sa
đóng tôi vào căn cước làng Hạ Bì và sông Đà núi Tản
(Giấc quê)

Không thực hiện được việc “Nhổ Hà Nội đặt vào quê”, tác giả “mang quê đặt vào Hà Nội” theo cách riêng của mình. Đó là cách đem một hũ đất linh của quê, về đặt lên ban thờ gia tiên ở Hà Nội, để lúc nào cũng được gần quê, được nghe “Tổ tiên thì thầm mật chỉ”. Và cũng bởi cái làng Hạ Bì ấy người thơ không thể đặt vào Hà Nội, cho nên nó trở thành làng cũ - cố hương. Cố hương trong tâm thức tác giả thật kì diệu và ân tình:

cố hương ngân sông núi đất đai này, 
nâng đôi cánh vi diệu
bay qua lỗ đáo tuổi thơ và cánh đồng vàng lúa…
Cố hương cấy vào tôi những đon mạ mùa đông giá lạnh
những bông súng rùng rùng mùa cá vật đẻ
ễnh ương kêu nẫu ruột ao làng
kêu đằng đẵng những đời bùn đất
Máu và nước mắt lớp lớp người trộn vào cỏ cây
mọc gốc đa, sân đình, bến sông trăng tỏa, 
mọc văn minh làng
        (Cố hương)

Nếu Nguyễn Quang Thiều mong ước được thành con chó nhỏ canh giữ nỗi buồn quê hương: “Tôi xin ở kiếp sau là một con chó nhỏ/ Để canh giữ nỗi buồn - báu vật cố hương tôi” (Bài hát về cố hương), thì Trần Quang Quý khẳng định chắc nịch:

Không gì bứng tôi được khỏi cố hương
Và: 

Có gì đánh đổi được
Tôi kí thác tôi trên đất Tổ tiên
phong tục truyền đời vun gốc cây văn hóa
Sẽ là gì khi trụi rễ cố hương?
   (Cố hương)

Chính bởi thế mà “Bến quê” được nhà thơ neo giữ trong tâm hồn với xiết bao kỉ niệm:
Mẹ gánh sương về phơi thóc ướt
Em gánh trăng về phơi mắt quê 
dưa muối tương cà… bẩm sinh nền văn minh lúa nước
những chiếc bồ bong cạp tư duy
Bến quê
Đong bao bước chân làng 
đong gió sương, đong tiếng gầm thác chảy 
chum vại dần sàng âm vang thớ đất 
sóng vỗ dọc đời người, vỗ sâu tâm thức
     (Bến quê)

Quê còn là niềm cảm hứng sáng tạo trong những Bầu trời thúng, Giấc quê, Mùa sim, Cây gạo bên sông, Đưa mẹ về Tiên cõi. Hình ảnh đau thương ngày để tang người mẹ hiền gắn liền với cảnh vật quê hương:

Bình vôi trầu của mẹ hóa mây trắng vắt ngang sông Đà 
quấn khăn tang non Tản  
để mỗi lần nhìn lên chúng con thấy cao xanh có mẹ 
sông cũng nằm lép sóng 
cánh cò về nghiêng biệt lời ru
(Đưa mẹ về Tiên cõi)

Mùa Vu lan đầu tiên vắng mẹ cũng là mùa Vu lan ở quê nhà:
Cây nhãn trĩu cành mà đâu bóng mẹ 
đâu nghĩ mùa nay mẹ mãi xa rồi 
nén hương con dâng, cây cau đứng chong chong 
và giàn trầu rủ lá
Vu lan mồ côi tôi đứa trẻ già
(Sáng nay, mùa Vu lan)

Không phải tự nhiên mà khi viết về bản thân mình, nhà thơ nhấn mạnh đến nguồn gốc quê hương đầy tự hào kiêu hãnh sông Đà núi Tản và lòng biết ơn cha mẹ:

Tôi, giọt máu Mẹ - Cha
Giời cho sinh ra bên bờ sóng sông Đà, Giáp Ngọ 
mở mắt đã Ba Vì sừng sững 
mở tai đã sông Đà sóng cuộn 
mở tâm đã ngọt lời ru mẹ 
(Viết cho mình, tuổi Ngựa)

Có thể nói làng Hạ Bì đã sinh thành và nuôi dưỡng nhà thơ để rồi làng, quê hương trở thành niềm cảm hứng lớn để nhà thơ “một đời ca hát”. Làng Hạ Bì của Trần Quang Quý, cũng như làng Chùa của Nguyễn Quang Thiều không chỉ là một cái làng cụ thể của riêng nữa, mà nó có ý nghĩa khái quát, như là cố hương của mỗi người dân Việt tha hương.

Từ yêu quê hương mình đến yêu quê hương bạn khoảng cách chẳng là bao. Làng mình, quê mình là nguồn cảm hứng lớn, thì làng bạn, quê bạn cũng có thể là nguồn cảm hứng lớn chứ sao. Sẽ không có gì ngạc nhiên khi trong tập thơ có những miền đất, miền quê khác được Trần Quang Quý cảm nhận với tình cảm cũng thật nồng nàn, da diết. Đó là Việt Trì, Hưng Yên, Nhật Tân, Vĩnh Yên, Hà Giang, Kinh Bắc, Nghệ An, Bến Tre.

Chỉ ví dụ về Nắng Nghệ để thấy thi sĩ đã thành công dân Nghệ, như công dân của làng Hạ Bì, Xuân Lộc, Thanh Thủy của miền đất Tổ:

Tôi không Nghệ mà nẻo tôi vẫn Nghệ
Nghệ ở em, Nghệ ở Diễn Châu, Nghệ về Cửa Hội 
một chiếc ô che cả vòm trời 
trong chiếc ô một dịu dàng cười 
em thu nắng đôi môi 
nhốt tôi 
miền nắng Nghệ
(Nắng Nghệ)

Thường thì ở mỗi miền đất được nhắc đều có một kỉ niệm EM, EM kỉ niệm.  Chúng tôi phát hiện rằng chính EM cùng với QUÊ là nguồn cảm hứng lớn. Nếu thống kê, sẽ thấy thật kinh ngạc. Tập thơ này 45 bài thì có đến 28 bài viết có hình ảnh em (chính xác là 26 bài có em, 2 bài em được gọi bằng nàng). Từ EM là một từ được sử dụng nhiều nhất trong số những danh từ như quê, làng, cố hương,…

Em có thể là một người bạn gái cùng quê, một thôn nữ trong làng gắn với những kỉ niệm ấu thơ, gắn với kỉ niệm làng:

- Em gánh trăng về phơi mắt quê 
(Bến)

- Em gánh nước quẩy chiều lên biếc 
tưới ướt mắt giai làng 
(Cây gạo bên sông)

- Em chín một cặp môi 
tóc đuôi gà thích thú với từng giỏ sim ngọt 
(Mùa sim)

Nhưng em còn là một bạn văn chương, một bạn cà phê, một bạn tình khơi gợi những rung động khát khao. Ta bắt gặp những em dẫn dụ người viết và người viết dẫn dụ em:

- Em Vĩnh Yên 
nụ cười Vĩnh Yên 
dắt anh chiều bình yên 
(Chiều Vĩnh Yên)

- Em tươi non em vừa cổ sử 
dắt tôi vào thế giới tưởng tượng rúc rích trong vườn 
(Mưa Phố Hiến)

- Em ngâu tôi 
trời đổ mưa nước mắt 
những ngọn lau chờ bạc rũ một triền sông 
(Ngâu)

- Mình dắt nhau bằng sợi dây quan họ 
chân mắc vào giăng mắc í a 
(Lên Kinh Bắc).

Những tình cảm trai gái ấy cùng với tình quê làm cho thơ của Trần Quang Quý đẹp, hấp dẫn, lôi cuốn người đọc bằng một vẻ đẹp riêng. Không quá chú ý tuyên ngôn cách tân ồn ào, nhưng Trần Quang Quý đem đến những hình ảnh mới, lối nghĩ mới và lối diễn đạt mới. Có lẽ thơ namkau cũng chỉ là một thử nghiệm, một cách tìm tòi đơn thuần về số câu chứ không có lề luật, thi pháp gì đặc biệt.  Mặc dù thi sĩ Du Tử Lê đã viết cả một bài có ý khen sự tìm tòi của Trần Quang Quý trong “trường phái thơ namkau”, nhưng lề luật của nó chỉ đơn giản là thơ tự do phần một - ba câu, phần hai - hai câu, thơ lục bát thì phần một bốn câu, phần  hai một câu! Thuần túy hình thức! Điều lạ là trong tập này không thấy bóng dáng bài namkau nào! Phải chăng tác giả đã in hết “bài hay lẫn bài vừa” trong tập “namkau”. Chúng tôi cho rằng đạt đến độ chín của cảm xúc và nghề viết, chẳng cứ gì “namkau” mà thơ Trần Quang Quý không gò số câu nào vẫn mới và vẫn hay! 
Trong một bài thơ nhan đề là Có con đường, chúng tôi chú ý đến khổ thơ:

Tôi đi sáng nay cùng dòng sông ấu thơ
tôi đi sáng nay ngàn con sóng mùa hè tuổi trẻ
tôi đi sáng nay cùng mùa thu đan mềm giai điệu lá […]
Chỉ khi con đường tôi hiện diện
tôi là tôi trong muôn vẻ người
không trộn mặt

Quê và em - nguồn cảm hứng lớn trong thơ Trần Quang Quý
(Qua tập thơ Nguồn của Trần Quang Quý, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2019)

Có thể coi đây như là sơ kết con đường đời, con đường thơ từ ấu thơ, thanh xuân đến mùa thu, mùa chín của đời người, đời thơ. Tác giả đã có gương mặt riêng giữa “muôn vẻ người”. Tập thơ Nguồn chính là một bảo chứng cho lời giãi bày mà cũng như là tự đánh giá một cách bình tĩnh, khách quan của tác giả.
(0) Bình luận
  • Họp lớp
    Tôi bước vào lớp, có lẽ tôi là người đến cuối cùng, bởi trong lớp đã kín gần hết chỗ ngồi, chỉ còn trống một chỗ ở cuối dãy bàn bên phải. Hơi ngượng vì đến muộn nên tôi ngần ngừ trước cửa mấy giây.
  • Sen quán
    Loay hoay mãi chị mới cởi nổi bộ khuy áo. Cái áo cánh nâu bà ngoại để lại. May sao áo của bà không chỉ vừa mà như muốn vẽ lại những đường cong đẹp nhất của chị. Chị là người Hà Nội. Mẹ không biết cụ tổ đến Hà Nội từ bao giờ mà chỉ biết và kể chuyện từ đời ông bà ngoại. Rằng ông ngoại từng là nhà buôn vải lụa còn bà là ca nương ca trù nổi tiếng ở đất kinh kỳ.
  • Một giấc mơ xa
    Vân nằm duỗi chân ở sofa, nghe đài mà hai con mắt cứ ríu lại. Jim và Coen vừa theo bố chúng ra ngoài. Ở thị trấn này, trẻ em và những chú cún luôn được thỏa thích dạo chơi. Ánh nắng của buổi sáng đẹp trời chiếu xuyên qua tấm rèm cửa khiến Vân không nỡ ngủ vùi. Cô sống cùng gia đình chồng ở một vùng phía đông Hà Lan, nơi mà cuối tuần nghe nói mình đi dạo là biết sắp được chở vào rừng. Sáng này nếu không thấy mệt trong người thì cũng đã…
  • Trên đỉnh gió
    Không lãng mạn như hình dung, chiếc tàu chở Lam từ bến cảng thành phố ra đảo chính là “tàu há mồm” có niên đại còn nhiều hơn tuổi của cô. Thủy thủ trên tàu lại càng không như cô vẫn thường tưởng tượng về những chàng lính hải quân đẹp trai, từng trải với trái tim nồng nàn và tâm hồn cực kì bay bổng.
  • Tàu xuôi ra Bắc
    Ba năm trước, tôi gặp Trang trên chuyến tàu mang số hiệu SE đang di chuyển từ miền Nam ra miền Bắc. Lúc đó, tôi ngồi đối diện với Trang ở toa ghế ngồi - toa thường dành cho người đi chặng ngắn. Trong toa xộc lên mùi thuốc lá, mùi dầu gió xanh, mùi bồ kết phảng phất từ mái tóc của mấy người đàn bà và mùi của vô số thứ hàng hóa trên sàn toa.
  • Những hòn đá
    Không ai biết tại sao những người lạ lại chuyển thẳng vào cư trú trong cái làng bẩn thỉu, gồ ghề những đá là đá và quanh năm gió quật. Vợ chồng người lạ nọ đã mua một lâu đài đổ nát nằm trên đồi, sừng sững ở đó từ thuở ấu thơ của họ, và nó thuộc về ngôi làng.
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
  • [Video] Sóng lụa làng nghề Vạn Phúc
    Là một trong những làng nghề thủ công ra đời sớm nhất vùng Đồng bằng sông Hồng cũng như cả nước, làng lụa Vạn Phúc (quận Hà Đông) là làng nghề dệt lụa tơ tằm nổi tiếng từ xa xưa. Nhiều mẫu hoa văn của lụa Vạn Phúc từng được chọn may quốc phục dưới các triều đại phong kiến. Ngày nay, ngoài việc gìn giữ, phát huy giá trị của nghề truyền thống qua các sản phẩm, làng lụa Vạn Phúc còn là điểm đến hấp dẫn của nhiều du khách trong nước và quốc tế.
  • Tọa đàm những vấn đề về kịch bản sân khấu hiện nay
    Với mong muốn tìm ra những nguyên nhân và giải pháp về vấn đề kịch bản sân khấu hiện nay, sáng 22/11, Hội Sân khấu Hà Nội tổ chức tọa đàm “Những vấn đề về kịch bản sân khấu” với sự tham gia của đông đảo hội viên trong hội.
  • [Podcast] Thu Hà Nội – Mùa của tình yêu và nỗi nhớ
    Bốn mùa, xuân, hạ, thu, đông của Hà Nội, mỗi mùa đều mang trong mình nét đẹp riêng bới hương, bởi sắc của mỗi mùa. Nhưng có lẽ, mùa thu vẫn là một mùa thật đặc biệt của Người Hà Nội. Mỗi độ thu về như gói gọn cả một Hà Nội cổ kính, trầm mặc, một Hà Nội thơ mộng và trữ tình. Chính bởi vẻ đẹp đó mà mùa thu đã trở thành nỗi nhớ cho những ai đã từng gắn bó với Hà Nội mà nay phải chia xa, là niềm ước ao một lần được “chạm vào” của nhiều du khách.
  • Triển lãm "Cộng đồng kiến tạo": Vinh danh những đóng góp giá trị cho xã hội
    Sáng 22/11, tại sân Bái Đường, Văn Miếu - Quốc Tử Giám đã diễn ra Triển lãm "Hành động vì cộng đồng" - Human Act Prize 2024 với chủ đề “Cộng đồng kiến tạo”.
  • Đồng chí Nguyễn Việt Phương giữ chức Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Thành ủy Hà Nội
    Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy Thanh Trì Nguyễn Việt Phương được điều động đến công tác tại Ủy ban Kiểm tra Thành ủy Hà Nội, giữ chức Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Thành ủy khóa XVII.
Đừng bỏ lỡ
Quê và em - nguồn cảm hứng lớn trong thơ Trần Quang Quý
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO