Chúng ta cần xem xét nguyên nhân từng nhóm đối tượng tại sao không đạt chỉ tiêu. Tại sao một số nhóm đối tượng được ngân sách Nhà nước hỗ trợ 30-70% tiửn mua thẻ BHYT nhưng một số địa phương chưa và o cuộc hỗ trợ người dân một phần còn lại. Tại sao một số tỉnh, tôi được báo cáo có các huyện đảo, xã đảo chỉ vì không xác nhận thủ tục mà không cấp được thẻ BHYT cho người dân, Phó Thủ tướng nêu vấn đử.
Tính đến 31/5/2015, cả nước đã có 64,6 triệu người tham gia BHYT, tăng 2,7 triệu người, tương đương 4,4 % so với cùng kử³ năm 2014, đạt tỷ lệ bao phủ 71,4% dân số. Riêng nhóm đối tượng tham gia BHYT theo hộ gia đình tăng hơn 400.000 người so với thời điểm cuối năm 2014, tương đương 5,4% .
Sáu tháng đầu năm, Quử¹ BHYT đã chi trả KCB cho gần 60 triệu lượt bệnh nhân BHYT với tổng số tiửn gần 20 nghìn tỷ đồng.
Bên cạnh những kết quả bước đầu, việc triển khai Luật BHYT vẫn gặp nhiửu khó khăn, thách thức trong việc thực hiện mục tiêu đạt tối thiểu 75% dân số có thẻ BHYT và o cuối năm 2015. Trong đó, kế hoạch triển khai của nhiửu địa phương chưa quyết liệt; công tác tuyên truyửn chưa thường xuyên và cụ thể, hiệu quả chưa cao; thủ tục quy trình đăng ký, lập danh sách tham gia BHYT còn phiửn hà ... Đặc biệt, tỷ lệ tham gia BHYT ở các nhóm đối tượng vẫn chưa đạt kế hoạch đử ra.
Nguyên nhân thực trạng trên do: Thủ tục tham gia BHYT theo hộ gia đình chưa được cải cách triệt để. Người dân thiếu thông tin do hệ thống đại lý bán thẻ BHYT không ổn định. Nhiửu địa phương chưa có cơ chế hỗ trợ 30% mức đóng còn lại cho hộ gia đình cận nghèo khi tham gia BHYT.
Mặt khác, tình trạng nợ đóng, trốn đóng BHYT tại các doanh nghiệp vẫn diễn ra khá phổ biến. Theo thống kê có trên 40% DN còn nợ đóng, trốn đóng BHYT nhưng các cơ quan chức năng chưa có biện pháp giải quyết dứt điểm.
Trao đổi với các đại biểu tại hội nghị, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đã phân tích và chỉ đạo ngà nh Y tế, BHXH và các địa phương tháo gỡ từng khó khăn, vướng mắc.
Trước hết, Bộ GD&ĐT tập trung chỉ đạo các cơ sở giáo dục thực hiện các biện pháp để nâng tỷ lệ mua BHYT trong học sinh, sinh viên đạt 100%. Cụ thể, tỷ lệ học sinh có thẻ BHYT đã đạt 90%, thì 10% còn lại, các trường cần tìm hiểu hoà n cảnh để vận động gia đình và các cháu đúng theo tinh thần BHYT (vừa chấp hà nh pháp luật, vừa đúng đạo lý tương thân, tương ái). Đối với sinh viên hiện đạt 78%, thì trong 22% chưa đóng thì phải xem kử¹ nếu sinh viên thuộc hộ nghèo thì xem xét hỗ trợ nhưng cũng phải tính cả trường hợp nhiửu sinh viên gia đình khá giả nhưng không mua BHYT.
Liên quan đến hỗ trợ đối tượng cận nghèo, Phó Thủ tướng nhận xét: 63 tỉnh, thà nh phố trên cả nước đửu có hộ cận nghèo nhưng mới có 33/63 địa phương có kế hoạch hỗ trợ cho đối tượng nà y mua thẻ BHYT, còn các địa phương khác vẫn đứng ngoà i cuộc.
Tôi đử nghị UBND các tỉnh, thà nh phố còn lại phải và o cuộc. Đây là chủ trương lớn, không phải chỉ là chỉ tiêu thà nh tích mà nó còn có ý nghĩa lớn hơn thế. Chúng ta có hệ thống BHYT mạnh gắn với nâng chất lượng KCB lên thì mới thay đổi được chất lượng dịch vụ KCB cho nhân dân, Phó Thủ tướng nói.
Vử đối tượng nông dân, diêm dân, ngư dân mà Nhà nước đã hỗ trợ 30% tiửn mua thẻ BHYT, Phó Thủ tướng yêu cầu đẩy mạnh vận động người dân tham gia BHYT.
Phó Thủ tướng lưu ý, không chỉ mở rộng các kênh bán BHYT, mà hệ thống KCB cũng phải phát triển tương ứng để đảm bảo quyửn lợi tối đa cho người dân theo hướng các cơ sở y tế (không phân biệt công lập hay ngoà i công lập) nếu đủ điửu kiện đửu được BHYT thanh toán khi điửu trị cho bệnh nhân có thẻ BHYT.
Vấn đử tin học hóa hệ thống BHYT một lần nữa được Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam nhấn mạnh là yếu tố quyết định để vận hà nh hệ thống chính xác, nhịp nhà ng; giải quyết được vấn đử chênh lệch số liệu cũng như trùng lắp, thiếu sót trong cấp thẻ BHYT. Và nhất là để người dân ở đâu, đi đâu cũng được KCB, thanh toán BHYT thuận tiện.
Phó Thủ tướng khẳng định: Tất cả bệnh viện và cơ sở y tế đã tin học hóa thì không có nghĩa sẽ xóa sạch hệ thống đó đi để là m lại mà đối tác cung cấp dịch vụ CNTT cho cơ sở y tế có thể tiếp tục là m nếu cơ sở y tế thấy tốt nhưng phải theo đúng hướng dẫn để đấu nối hệ thống đồng bộ toà n quốc.
Tin học hóa không chỉ phục vụ cho thanh toán BHYT mà sau nà y tất cả các dịch vụ vử y tế, kể cả y tế dự phòng lẫn y tế điửu trị đửu qua hệ thống nà y. Chúng ta đặt thời hạn đến 31/12/2015 toà n bộ hệ thống y tế của Việt Nam phải được tin học hóa và nối mạng, Phó Thủ tướng nói.