Phố Nguyễn Công Trứ dài 1.215m, rộng 9m.
Đây nguyên là phần đất của các thôn Cảm Ứng, Yên Hội và Yên Hội Hàng Hương. Cả ba đều thuộc tổng Hậu Nghiêm 9sau đổi là Thanh Nhàn), huyện Thọ Xương.
Sang giữa thế kỷ XIX, thôn Cảm ứng hợp với thôn Yên Hội thành ra thôn Cảm Hội. Đình thôn Cảm Hội nay vẫn còn vết tích. Đó là ngôi nhà số 55 phố này, thờ một nhân vật huyền thoại: Xà Công (Ông rắn) tục truyền là tướng của vua Hùng. Ông đã từng dẹp yên giặc Ma Lôi nổi lên ở Bạch Hổ, rồi lại đánh tan giặc Mũi Đỏ ở vùng núi phía tây. Đình thôn Yên Hội Hàng Hương thì ở trong ngõ 19.
Trước năm 1913 là phố Nghĩa Trang (rue de la Cimetière), năm 1920 đổi tên thành phố Đội La-ri-vê (rue Segent Larrivée), năm 1945 đổi thành phố Y-éc-xanh, năm 1949-1951 đổi thành phố Nguyễn Công Trứ.
Nay thuộc các phường Phạm Đình Hổ, Đồng Nhân, Phố Huế, quận Hai Bà Trưng.
Cũng ở phố này, vào những năm cuối thế kỷ XIX, một nhà máy rượu của Hãng Phông-ten (Fontaine) mọc lên, nắm độc quyền nấu rượu ở Đông Dương. Ngày nay, đã cải tạo và xây dựng thành Công ty Rượu Hà Nội.
Nguyễn Công Trứ (1778-1858) hiệu Ngô Trai, Hy Văn, người làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân nay thuộc tỉnh Hà Tĩnh. Năm 41 tuổi ông thi hương đỗ giải nguyên, sang năm sau được bổ làm quan. Từ đó cho đến khi về trí sĩ (1848, 70 tuổi), cuộc đời làm quan của ông thật sự “chìm nổi” (từng làm đến chức Tổng đốc, hàm Thượng thư, nhưng cũng có lúc bị cách làm lính).
Nguyễn Công Trứ là một nhân vật có đầy mâu thuẫn trong thế giới quan cũng như trong hành động. Tuy nhiên lịch sử ghi nhận ông là một người có biệt tài về khai hoang lập làng mới: Ông đã có công tổ chức “lấn biến” tạo ra những thôn xóm trù phú trên bãi hoang nước mặn đồng chua. Năm 1827, ông tự xin triều đình cho đứng ra khai khẩn vùng đất mặn mới hình thành ở ven biển các tỉnh Nam Định (lúc đó bao gồm cả Thái Bình) và Ninh Bình. Được chuẩn y, mùa xuân năm 1828, ông bắt tay vào việc. Kết hợp kinh nghiệm thau chua rửa mặn của tổ tiên xưa với óc sáng tạo của bản thân, Nguyễn Công Trứ đã chỉ đạo xây dựng một mạng lưới thủy nông lớn. Chỉ trong có hai năm, ông đã lập ra hai huyện Tiền Hải (tỉnh Thái Bình) và Kim Sơn (tỉnh Ninh Bình) cùng một số tổng thuộc hai huyện Nam Chân, Giao Thủy (tỉnh Nam Định cũ) với tổng diện tích là trên 4 vạn mẫu (khoảng 1 vạn rưỡu héc ta) và số dân lên tới 4.000 người.
Năm 1832, khi làm Tổng đốc Hải An (Hải Dương và Quảng Yên), ông lại tổ chức khai hoang trên 3 nghìn mẫu ở vùng biển tỉnh này.
Ông còn là một nhà thơ đặc sắc, tài hoa, sáng tác nhiều bài ca trù nổi tiếng.