Từ thập kỷ 80 của thế kỷ XX, ở xã Phù Nham các nhà khảo cổ đã phát hiện các di vật trống đồng, thuổng đồng, vòng tay đồng... thuộc văn hóa Đông Sơn. Và o năm 2000, ông Lường Văn Xiên ở bản Đao sau khi thuê máy múc đất đà o ao, ở độ sâu 60-80cm thì phát hiện khoảng 5- 6 lò nung, các loại gạch ngói lạ thời cổ: gạch chữ nhật, ngói mũi lá, mũi hà i, ngói ống... Nay một phần lấp sâu chỗ khác, phần kè đắp bử ruộng, bử ao, vương vãi trong khuôn viên vườn nhà với số lượng khá lớn.
Còn tại đồi Pú Tre, cách nhà ông Lường Văn Xiên khoảng 1km vử hướng Bắc, năm 1978, hợp tác xã người Hoa thuê máy ủi đỉnh quả đồi nà y trồng mía thì phát lộ ngói mũi hà i, mũi lá. Khi ủi đến đỉnh mặt phẳng thì phát hiện đá bó vỉa, ngói, gốm, tiửn cổ. Máy ủi chết máy, họ cho là thiêng nên để nguyên tại chỗ, nay trồng chè, keo và trồng tre. Từ khi đồng bà o miửn xuôi lên tiếp tục khai phá đất trồng chè, quả đồi nà y được người Thái đen địa phương đặt tên là Pú Tre (nghĩa là đồi chè).
Tháng 6/2011, Bảo tà ng tỉnh tổ chức đoà n điửu tra khảo sát, thám sát thăm dò khảo cổ dưới chân đồi, đỉnh đồi Pú Tre, Pú Chìa Chùa và vườn nhà ông Lường Văn Xiên ở bản Đao. Tại hai đỉnh đồi Pú Tre, Pú Chìa Chùa đửu phát hiện được các loại đá gọi là "đá ông sư", gạch, ngói, ngói mũi hà i, ngói mũi lá, ngói bò nóc, ngói bò nóc trang trí hoa sen, cánh sen lật, gốm hoa nâu.
Có điửu lạ là loại đá ông sư đửu lấy ở ngòi Thia để kè bó vỉa nhưng ở Pú Tre sử dụng loại đá từ 2kg trở lên, còn ở Pú Chìa Chùa chỉ sử dụng loại đá từ 1kg trở xuống. Chân tảng có khắc cánh sen, nhưng những viên đã nà y được nhân dân chuyển vử là m đá mà i dao nên bị mử mòn, mất hoa văn khó xác định.
Đặc biệt, ở đồi Pú Chìa Chùa cách nhà ông Lường Văn Xiên 2km, cách đồi Pú Tre 1km đửu vử phía Bắc chỉ cần bóc một lớp đất mà u nâu hơi đen (đất mùn) khoảng 35 đến 45cm là chạm và o gạch, ngói. Đoà n điửu tra, khảo sát cho rằng, khu nhà ông Lường Văn Xiên là khu sản xuất vật liệu đất nung xây dựng kiến trúc Phật giáo; ở Pú Tre và Pú Chìa Chùa, đá ông sư được vận chuyển từ suối Thia lên để kè bó vỉa nửn của hệ thống kiến trúc kể trên. Tuy vậy, tộc người Thái Đen vốn có chữ viết, cư trú trước đó lại không có trang viết nà o cũng như các cụ già ở đây đửu không biết gì vử hệ thống di tích, phế tích đất nung đồ sộ từng tồn tại ở nơi đây.
Hiện cũng chưa rõ mối quan hệ, liên quan gì đến kiến trúc Phật giáo thời Trần (ở Phú Thọ) hay Hắc Y - Lục Yên (Yên Bái) hay không. Đoà n khảo sát đang tiến hà nh là m tử trình đử nghị Ủy ban Nhân dân tỉnh Yên Bái cho phép phối hợp với các chuyên gia khảo cổ học, tiếp tục mở rộng, nghiên cứu, khai quật lớn, dà i hạn (vì phế tích hoà n toà n nằm sâu trong lòng đất) tại các điểm đã phát hiện khu vực nà y.
Việc là m nà y có ý nghĩa lớn nhằm là m sáng tử lịch sử đời nhà Trần và lịch sử dân tộc Thái Đen Mường Lò - Văn Chấn. Rất có thể, đây là di tích thời Trần hiếm hoi có một không hai, lần đầu tiên phát hiện được ở phía Tây của tỉnh Yên Bái.