Người biên soạn ra hai bộ sách trên chúng ta chỉ nói nhiửu đến Lê Quí Đôn, Vũ Miên (Đại Việt lịch triửu khoa đăng lục), hay Lê Quí Đôn và Ngô Thời Sĩ (Đại Việt sử ký tục biên). Tuy nhiên một người có vai trò rất quan trọng trong việc biên soạn những cuốn sách trên phải kể đến Nguyễn Hoà n. Với chức trách đứng đầu Quốc sử viện cuối đời Lê, ông đã cùng với họ sưu tầm, chỉnh lý và biên soạn.
Sử cũ ghi rằng: Năm 1775, Chúa Trịnh Sâm (1767-1782) sai Nguyễn Hoà n, Lê Quí Đôn, Ngô Thời Sĩ... soạn quốc sử, chép thêm từ Hi Tông đến à Tông gọi là Quốc sử tục biên gồm 6 quyển. Chúng tôi đã đọc gia phả, xem gốc tích của dòng họ của Nguyễn Hoà n, đã nhiửu lần viết bà i vử dòng họ nà y. Có thể nói, ít có một gia đình nà o trên đất nước ta có cả bố và con cùng đỗ tiến sử¹ và được ghi tên ở Quốc Tử Giám, lại cũng là những người thầy dạy của cả vua chúa, là m quan đến chức thượng thư.
Bia đá trong Văn Miếu
Mới đây nhất, khi xã Nông Trường, huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa, quê gốc của hai cụ thực hiện chủ trương dồn điửn đổi thửa, đã phát hiện ra ngôi mộ của cụ Nguyễn Hoà n. Theo ông Nguyễn Văn Hán, hậu duệ của dòng họ, khi cụ mất, mộ của cụ được an táng tại là ng Đa Sử¹, nơi cụ đã vử trí sử¹. Sau nà y con cháu đưa vử quê an táng bên cạnh bố là cụ Nguyễn Hiệu. Qua thời gian, mộ cụ bị san phẳng khó xác định vị trí.
Lại nói vử Nguyễn Hoà n, ông xuất thân trong một gia đình có truyửn thống Nho học ở đất Thăng Long. Bố là Tiến sĩ Nguyễn Hiệu, là m quan đến chức thượng thư, từng giữ chức tả tư giảng, dạy học cho Thế tử Trịnh Giang. Nguyễn Hiệu, khi nhử nổi tiếng thông minh, tuấn tú, năm lên 8 tuổi đã đọc cả Thi thư, đến năm 27 tuổi, dự thi hội khoa Canh Thìn, niên hiệu Chính Hòa (1700) đã đỗ Hội nguyên (đỗ đầu).
Sách sử ghi: Chúa Trịnh nằm mơ thấy người Lan Khê đỗ nhất, bèn đem chuyện ấy nói với Tể tướng Lê Hy (1646 - 1702), là người tổng Thạch Khê, huyện Đông Sơn, cùng quê với ông Nguyễn và quả đúng nghiệm. Đến kử³ thi Đình cùng năm, Nguyễn Hiệu đã đỗ tiến sĩ.
Sau khi đỗ đại khoa, Nguyễn Hiệu được cử giữ các chức vụ quan trọng trong triửu đình đương thời, như thiêm sai bồi tụng (1715), là chức quan thứ 2 coi việc xét xử, rồi tả thị lang (thứ trưởng thứ nhất) (1720). Trong thời gian nà y, ông dâng lên chúa Trịnh kế sách Trị bình, gồm những phương cách là m cho đất nước ổn định, phát triển, được chúa Trịnh Cương rất khen ngợi. Đến năm Bảo Thái thứ 2, triửu vua Lê Dụ Tông (1722), nhà vua tổ chức khảo công các quân thần, Nguyễn Hiệu xếp hạng trên nhất, nên ông được ban tước Nông quận công. Nguyễn Hoà n là con cả của gia đình và đã tiếp thu tinh hoa Nho giáo của thời đại thông qua người bố. Chính việc bố dạy dỗ cho các thế tử phủ chúa cũng là điửu kiện để dạy dỗ con cái. Việc ông đỗ tiến sử¹ như là lẽ đương nhiên.
Nhưng cũng có giai thoại kể rằng, Nguyễn Hoà n khi đi thi tiến sử¹ bà i văn sách là do sáu văn sử¹ là m giúp cho trước, vì thuở ấy Phong quận công Nguyễn Hiệu đang là m tham tụng (nghĩa là tể tướng), quyửn to, các quan khác đửu sợ. Khi ấy có một ông quan bị khiển trách, phải bãi chức. Một hôm, ông nà y được triệu và o tướng phủ, nhưng ngồi đợi lâu ở nhà trong mà không được yết kiến. Ngồi mãi, không có gì là m, ông ta chợt thấy trên kỷ có một đầu đử văn sách, mở ra xem, đọc đi đọc lại thuộc hết cả. Suốt ngà y được kẻ hầu người hạ khoản đãi rất tử tế, đến chiửu ra vử mà vẫn không thấy quan Tham tụng hửi đến, không hiểu ra sao.
Đến khi phủ chúa (chúa Trịnh) triệu tập các quan văn thần và o soạn đử thi, thì ông quan ấy cũng được triệu và o, ông ta liửn đử nghị cái đầu đử văn sách đọc được bữa trước trong tướng phủ. Khoa ấy, ông Nguyễn Hoà n đỗ Hội nguyên. Chuyện nà y ông Phạm Đình Hổ, tác giả Vũ Trung tùy bút, kể lại theo giai thoại và viết thêm rằng chuyện nà y cũng giống một chuyện tương tự xảy ra ở bên Tà u thuở trước, (ý chừng là có kẻ hiếu sự bà y đặt ra mà thôi). Thật ra câu chuyện trên có nhiửu mâu thuẫn, khó có thể chấp nhận. Là m sao lại có chuyện một người vừa bị bãi chức liửn được mời ra soạn thảo đử thi? Vì đây là cuộc thi quan trọng nhất của triửu đình phong kiến. Không lẽ triửu đình thiếu nhân tà i đến mức ấy.
Hơn nữa là m gian dối một kử³ thi đã khó, giai thoại còn nói cả hai kử³ thi là thi Hương và thi Hội. Điửu đó rất khó xảy ra. Còn đử thi như sử cũ chép là trí tuệ của nhiửu người chứ đâu phải chỉ một người. Tất nhiên thi cử thời nà o cũng vậy đửu có gian lận, nhưng gian lận mà có cả sáu vị cùng là m một bà i văn sách cho một người thì lạy ông tôi ở bụi nà y.
Thời nà o cũng vậy, thi cử cũng chỉ là một bước quan trọng, nhưng cái quyết định nhất là trường đời nơi sát hạnh công tâm nhất. Nếu không có thực tà i là m sao giúp được cho dân, cho nước và được trọng dụng? Nguyễn Hoà n nếu không có thực tà i là m sao có thể đảm đương nhiửu chức vụ rường cột trong triửu đình ở giai đoạn trọng đại của lịch sử? Nếu không có trí dũng là m sao các quan lại cũng đửu nể phục. Trong sách Hoà ng Lê nhất thống chí khi viết vử giai đoạn đầy biến động nà y, quan chỉ mong giữ mình, cốt sao yên phận, thì việc Thánh mẫu nhận xét: "Lại nghĩ trong bọn bảy tên phụ chính, chỉ có quận Hoà n vừa là thầy học của chúa trước vừa là bố vợ Kiêm, bụng dạ có thể tin được, mà lại là bậc lão nho có nhiửu mưu trí, có thể cùng bà n mọi việc với ông ta" đủ thấy Nguyễn Hoà n là con người như thế nà o.
Xét ở góc độ người bố, đà nh rằng Nguyễn Hiệu cũng như bao nhiêu ông bố khác ai chẳng muốn lo cho con cái mình đỗ đạt. Nhưng những bậc khoa bảng ngà y xưa tiết tháo có thừa. Hãy nghe những người xưa đánh giá vử Nguyễn Hiệu từ đó mà suy xét. Sử cũ chép ông là con người công tâm, không tư lợi cá nhân, tư cách chính trực, là m việc cần mẫn, lấy lợi ích của dân là m chính. Khi là m trong triửu chính, được giao nhiệm vụ can gián vua, chúa, thanh tra quan lại, ông đã không vì tình riêng hay sợ hãi trước vua chúa mà là m sai.
Năm Long Đức thứ 3 (1734), ông được tặng hà m thiếu bảo, sau đó giữ chức tham tụng (tể tướng), ông đã không đồng tình với chủ trương của triửu đình là bắt thêm lính bổ sung và o quân số. à”ng cho rằng lính không cần số đông mà cần tinh, đông quá chỉ tốn kinh phí nuôi quân, lại thà nh hại cho dân. Lời bà n của ông vừa thực tâm, vừa chí lý khiến chúa phải nghe theo. à”ng còn đưa ra kế sách trị bình khiến triửu đình đửu ủng hộ. Như vậy đủ thấy Nguyễn Hiệu là con người trung thực, công tâm vì dân vì nước như thế nà o.
Tiến sử¹ Nguyễn Hoà n sau khi đỗ đạt, ông ra là m quan. Sự nghiệp nhanh chóng được khẳng định. Sau nà y ông là m đến chức Nhập thị Tham tụng, Lại bộ Thượng thư kiêm hà nh Lễ bộ sự Hữu tư giảng, Tri Quốc Tử Giám, Tri Hà n lâm viện sự (1774) kiêm Quốc sử tổng tà i. Năm 1777, khi ông đã 65 tuổi, theo lệ được vử trí sĩ, thăng hà m Thái phó, tước Viện quận công. Chúa Trịnh Sâm vời ông đến tôn là m Quốc lão, xếp ông là một trong năm vị nguyên lão đại thần. Tuy đã vử trí sĩ nhưng vẫn được mời tham dự triửu chính.
Bia mộ cụ Nguyễn Hoà n
Có thể nói chính vì những đóng góp của cụ, vì uy tín của cụ và vì trí tuệ vẫn sáng suốt, uyên thâm của cụ còn có thể còn đóng góp nhiửu cho triửu đình mà Chúa vẫn tin dùng. Lại nói vử việc ông biên soạn lịch sử. Theo nhà nghiên cứu Ngô Đức Thọ, sách Đại Việt lịch triửu đăng khoa lục gồm ba cuốn đã được khắc in, với bà i tựa do người đứng đầu nhóm là Viện quận công Nguyễn Hoà n viết và o tháng Mạnh hạ (tháng Tư năm Kỷ Hợi Cảnh Hưng thứ 40 (1779), nghĩa là sau hai năm sau khi Nguyễn Hoà n đã hưu trí lại được chúa Trịnh Sâm vời ra tham dự triửu chính. Mặc dầu chưa thấy sử ghi phủ chúa xuống lệnh vử việc soạn đăng khoa lục, nhưng chính hai vị Nguyễn Hoà n và Vũ Miên đã đứng ra tổ chức công việc nà y.
Các nhà nghiên cứu phương Tây khi nói vử Quốc sử quán của cả Trung Quốc và Việt Nam đửu nhận định việc biên soạn sách Đăng khoa lục là công việc được coi trọng và thường xuyên. Ở ta, hai triửu đại Lý, Trần đã tổ chức nhiửu khoa thi, nhiửu người đỗ đạt. Tuy nhiên sử sách không thấy nói có sách đăng lục ở thời kử³ nà y. Phải đến đời Lê Thánh Tông mới có sách Đăng khoa lục. Và tiếp nối là Đăng khoa lục của Nguyễn Hoà n và Vũ Miên biên soạn. Đây chính là những tư liệu giúp cho chúng ta sau nà y hiểu rõ vử lịch sử khoa cử nước nhà .
Riêng cuốn Đại Việt sử ký tục biên có lẽ còn nhiửu tranh cãi vử tác giả, nhưng những giá trị của nó thì không thể bà n cãi. Gần đây nhân có hội thảo vử cụ Nguyễn Hoà n, nhiửu nhà nghiên cứu đã bước đầu hé mở những điửu còn chưa rõ. Nhà nghiên cứu Ngô Đức Thọ có lý khi cho rằng trong khi chử đợi một chuyên khảo giải quyết vấn đử nhận diện soạn giả Đại Việt sử ký tục biên chỉ muốn lưu ý một điểm Nguyễn Hoà n đứng đầu bảng trong ba người được giao trách nhiệm kiêm Quốc sử Tổng tà i.
Tất nhiên trong nhóm nà y thà nh tích khoa học nổi hơn cả là Lê Quý Đôn. Nhưng nhận trách nhiệm ấy từ 8-1775, đến khoảng tháng 3-1776 Lê Quý Đôn đã đi nhậm chức Hiệp trấn Thuận Hoá, cuối năm trở vử là m Đô ngự sử. Nhóm đồng tổng tà i quốc sử chỉ còn Nguyễn Hoà n và Vũ Miên, nhưng Nguyễn Hoà n - người đứng đầu danh sách ba vị đồng tổng tà i của công trình lớn nhất - có nhiửu khả năng cũng là Tổng tà i hoặc Tri Quốc sử quán. Tuy các nhà nghiên cứu (đã dẫn trên) đửu biết việc Nguyễn Hoà n được giao là m đồng tổng tà i năm 1775, còn chi tiết nhử sau đây có thể có ý nghĩa nhưng chưa thấy ai nhắc đến: chính Nguyễn Hoà n là người thông báo Quốc sử (tức Đại Việt sử ký tục biên) đã hoà n thà nh. à”ng viết quá kiệm lời, lại để ở cuối bà i tựa một công trình khác nên ít người lưu ý tới.
Ở bà i viết nà y chúng tôi không đi sâu nghiên cứu các công trình do ông là m tổng tà i hoặc tham gia. Nhưng dẫu sao vai trò của Nguyễn Hoà n đối với sử học nước nhà trong một giai đoạn lịch sử là có thật và không thể bị lãng quên. Đại Việt sử ký toà n thư là công lao của nhiửu thế hệ những nhà khoa bảng. Thế hệ sau tiếp nối thế hệ trước là m nên công trình sử học đồ sộ nà y. Tên tuổi của họ sẽ sống mãi cùng dân tộc.
Những người cùng biên soạn với cụ hầu hết đã được vinh danh, được Hà Nội đặt tên đường, đó cũng chính là sự tri ân đối với những bậc trí giả đã có công lao đối với dân tộc. Nguyễn Hoà n và Vũ Miên, những người có vai trò quan trọng trong việc tiếp tục công trình đồ sộ nà y ở một giai đoạn lịch sử thì nhiửu năm nay chúng ta cũng chưa là m rõ. Một và i bà i báo có đử cập đến vai trò của các ông nhưng chủ yếu là những tử báo ở quê hương các ông (Vũ Miên sinh năm 1718, người là ng Xuân Lan (còn gọi là Liên Trì, Ngọc Quan), nay là thôn Ngọc Quan (Quà n Sen) xã Lâm Thao, huyện Lương Tà i, tỉnh Bắc Ninh).
Hội thảo vử danh nhân Nguyễn Hoà n vừa qua đã hé mở nhiửu tư liệu quan trọng. Nhiửu học giả đã đánh giá cao công lao của Nguyễn Hoà n. Theo ông Nguyễn Văn Hán - hậu duệ của Nguyễn Hoà n, người cùng tổ chức và tham gia hội thảo - cho biết, tới đây có thể sẽ cân nhắc đặt tên ông tại một đường phố của Hà Nội. Đó cũng là sự tri ân của thế hệ sau. Tuy nhiên các nhà sử học cần nghiên cứu và đánh giá khách quan những đóng góp của các ông cho sự phát triển của lịch sử nước nhà . Trả lại tên của họ trong những cuốn sử đã chủ trì biên soạn hoặc cùng biên soạn.
Và phải chăng việc vừa tìm thấy ngôi mộ của cụ Nguyễn Hoà n cũng là điửm báo trước những nghi vấn và công lao xung quanh cuộc đời và sự nghiệp của cụ sẽ được sáng tử.