Trên đây là sự e ngại của giáo sư Nguyễn Lân Dũng khi bà n vử giải pháp cho phát triển giáo dục cách đây khoảng hai năm. Cũng theo ông, nửn giáo dục tốt phải cố gắng đáp ứng nhu cầu học hà nh của các em. Phải mở rộng cửa!.
Tại Việt Nam, quy mô và tốc độ phát triển các trường ĐH bình quân trong 10 năm qua là một năm có 7,8 trường ra đời. Riêng năm 2006, 2007 có 39 trường ra đời. Khối CĐ có tỷ lệ 13 trường ra đời/năm.
Đã có nhiửu trí thức tử ý lo ngại vử tốc độ phát triển quá nhanh nà y, cảnh báo vử sự rối loạn vượt quá tầm kiểm soát, chạy theo số lượng, hy sinh chất lượng, bất chấp mọi chuẩn mực, thông lệ và kinh nghiệm quốc tế...
Vì người học nên mới phải...loạn
Ngay từ năm 1994, cùng với tuyên bố: Giáo dục đại học đã lâm và o khủng hoảng trên toà n thế giới, Ngân hà ng Thế giới (WB) cũng nhận định các nhà hoạch định chính sách như luôn gặp khó khăn trong việc cân bằng giữa nhu cầu chất lượng và tính đại chúng. Trong một giai đoạn phát triển nà o đó, do vậy, nhiửu nước sẽ buộc phải chấp nhận nhân nhượng giữa số lượng và chất lượng.
Việt Nam dường như đang lựa chọn chính sách giáo dục ĐH theo hướng tăng nhanh quy mô. Lý do của sự lựa chọn nà y, theo lãnh đạo ngà nh giáo dục là xuất phát từ nhu cầu xã hội. Đến nay, Việt Nam chỉ có có tỷ lệ 190 sinh viên/1vạn dân.
Nước | Số sinh viên/1vạn dân |
Hà n Quốc | 670 |
Mử¹ | 570 |
Australia | 500 |
Chilê | 400 |
Thái Lan | 374 |
Pháp | 355 |
Nhật Bản | 316 |
Việt Nam | 190 |
Nhìn và o bảng trên có thể thấy, tỷ lệ nà y so với một số nước mới chỉ bằng 1 nửa đến 1/3.
Mặt khác, các địa phương xuất phát từ nhu cầu của mình cũng muốn có trường đại học để nâng cao nhân lực. Đó là các yếu tố thuận lợi để phát triển trường đại học.
Việt Nam hiện nay có nhiửu gia đình muốn con em mình học đại học, nên người học chưa thận trọng chọn lựa kử¹, dẫn đến tốc độ phát triển những trường chất lượng chưa cao chưa nhanh! Tuy nhiên, ngà nh giáo dục cũng nhận lỗi vử mình là cởi mở thông tin chưa tốt.
Để cải thiện tình trạng nà y, theo Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ GD- ĐT Nguyễn Thiện Nhân thì từ năm 2008, ngà nh giáo dục thực hiện 3 công khai:
Công khai cam kết chất lượng đà o tạo, mỗi trường phải nói rõ sinh viên ra trường là m được việc gì? Là m ở đâu?
Công khai nguồn lực vử cơ sở vật chất, đặc biệt là giáo viên. Mỗi một khoa phải có một bảng có ảnh của tất cả giảng viên của khoa, phân loại giảng viên cũ, giảng viên thỉnh giảng để sinh viên có thể kiểm soát được.
Công khai vử thu, chi tà i chính của đơn vị.
Những thông tin nà y sẽ được đưa lên trang web của Bộ. Người học có thể và o trang web của Bộ cập nhật thông tin vử từng trường đại học, vử những nguồn lực, cơ sở vật chất, trước khi đưa ra quyết định chọn trường.