Trong gia tà i khá đồ sộ với 30 đầu sách in riêng vử Hà Nội của Nhà nghiên cứu Giang Quân có 1 cuốn sách viết vử đất Thăng Long ngà n năm văn hiến qua ca dao “ ngạn ngữ. Ở đây, tác giả đử cập tới hình ảnh đất và người Thủ đô nước Việt được đúc kết trong kho tà ng văn hóa dân gian. Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
Thăng Long, Hà Nội đô thà nh/ Nước non ai vẽ nên tranh họa đồ
Trong kho tà ng ca dao dân gian Việt Nam có biết bao câu ca nói vử Thăng Long - Hà Nội, ca ngợi cảnh đẹp, ca ngợi con người, phản ánh đời sống nơi kinh thà nh hoa lệ.
Cùng với sự thăng trầm của lịch sử, mảnh đất nà y khi là Thủ đô đất nước, khi bị ngoại xâm chiếm đóng, nhưng rồi lại trở vử với nhân dân, lại giữ vai trò trung tâm chính trị - văn hóa - kinh tế của đất nước: Thăng Long, Hà Nội đô thà nh/Nước non ai vẽ nên tranh họa đồ /Cố đô rồi lại tân đô /Nghìn năm văn vật bây giử vẫn đây.
Hà Nội nằm giữa một vùng sông nước với những ngã ba sông, lại có núi Nùng trấn trung tâm. Ba Vì, Tam Đảo, Sóc Sơn bao phía bắc, tạo nên thế rồng cuộn hổ ngồi: Sông Tô một giải lượn vòng /Ấy nơi liệt sĩ anh hùng giáng sinh /Sông Hồng một khúc uốn quanh /Văn nhân tà i tử lừng danh trong ngoà i.
Hà Nội còn đẹp bởi: Giữa nơi thà nh thị có hồ xanh trong
Hà Nội không chỉ già u có vử di tích, danh lam thắng cảnh, vử đình, đửn, chùa, vử kiến trúc, điêu khắc, vử cổ vật... mà còn là một kho tà ng vô cùng phong phú vử văn hóa - văn nghệ dân gian phi vật thể.
Đó là hà ng nghìn câu ca dao, ngạn ngữ, là n điệu hát, khúc nhạc, hà ng trăm truyện cổ tích, truyửn thuyết, huyửn thoại, câu đối, truyện cười, hà ng trăm trò chơi, thú chơi dân dã cũng như những mử¹ tục thuần phong thanh lịch mang sắc thái riêng biệt của Thăng Long - Hà Nội có bử dà y nghìn năm lịch sử, tinh hoa của nửn văn hiến Việt Nam.
Kho tà ng ấy rất ít được ghi lại thà nh văn bản mà chủ yếu được truyửn tụng từ đời nà y sang đời khác. Trong quá trình lưu truyửn ấy nó được bổ sung, chỉnh lý, sửa đổi cho phù hợp với từng thời đại và cả với tầng lớp giai cấp mà nó phổ biến. Cho nên văn hóa phi vật thể thường có nhiửu lối kể, cách diễn đạt cũng như chi tiết nội dung khác nhau. Tính dị bản ở nó là tất nhiên. Nó còn được dùng lẫn ở nhiửu địa phương với công thức bình chung, rượu riêng.
Thí dụ như trong ca dao miêu tả ngợi ca quê hương là ng xóm, nhiửu nơi ứng dụng lẫn của nhau chẳng biết ai lấy của ai, câu nà o ra đời trước nữa: Hỡi cô thắt lưng bao xanh/Có vử Kẻ Bưởi với anh thì vử; Hỡi cô mà thắt bao xanh/Có vử Kim Lũ với anh thì vử; Hỡi cô thắt lưng bao xanh/Có vử Kẻ Vẽ với anh thì vử... Hà Nội cũng là quê hương của nhiửu lễ hội nổi tiếng thiên hạ: Ai ơi mồng chín tháng tư/Không đi hội Gióng cũng hư mất đời; Nhớ ngà y hăm ba tháng ba/Dân trại ta vượt Nhị Hà thăm quê...
Long thà nh bao quản nắng mưa/ Cửa à” Quan Chưởng bây giử còn đây
Ca dao còn phản ánh một Thăng Long - Hà Nội có bử dà y lịch sử và quá khứ anh hùng: Long thà nh bao quản nắng mưa/ Cửa à” Quan Chưởng bây giử còn đây...Trời cao biển rộng đất dà y/Núi Nùng, sông Nhị, chốn nà y là m ghi..
Ca dao, ngạn ngữ xưa phản ánh đủ các mặt của xã hội, từ phong tục tập quán, lễ nghi, lối sống, nghử nghiệp, tính cách con người, đến đấu tranh các thói xấu, tệ nạn đương thời, giúp cho các nhà nghiên cứu lịch sử có thêm dữ liệu. Qua bà i ca dao Vui nhất là chợ Đồng Xuân ta thấy cảnh nhộn nhịp của cái chợ lớn nhất kinh thà nh. Nà o là Cổng chợ có chị hà ng hoa/Có người đổi bạc chạy ra chạy và o/Lại thêm sực tắc bán rao... cho đến Có người bán lược bán gương/Có người bán cả hòm rương, tủ quầy/Có người bán dép, bán dà y/Có người bán cả ghế mây để ngồi....
Đất lử Kẻ Chợ còn là nơi lắm người Khéo tay hay nghử và những đặc sản quý hiếm: Lĩnh hoa Yên Thái, đồ gốm Bát Trà ng, thợ Và ng Định Công, thợ đồng Ngũ Xã, Mực cầu Cậy, giấy là ng Hồ, Sù, Gạ thì giửi chăn tằm, là ng La canh cửi, là ng Đăm bơi thuyửn... và cá rô đầm sét, sâm cầm Hồ Tây, cốm Vòng, gạo tám Mễ Trì... Lại còn những là ng hoa:Ngọc Hà , Hữu Tiệp, Tây Hồ, Nghi Tà m, Nhật Tân... là m ngẩn ngơ các du khách đến thăm - trước cảnh đẹp, người đẹp, đã thốt lên: Hửi người xách nước tưới hoa/Có cho ai được và o ra chốn nà y.
Nhưng bên cạnh cái phồn hoa đệ nhất kinh đô ấy, ca dao đã không quên một thực tế của dân nghèo Hà Nội dưới thời Pháp thuộc: Văn minh đèn điện sáng lòe/Thông thương kử¹ nghệ mọi bử chấn hưng/ Chỉ cánh áo ngắn khốn cùng/Là m lụng suốt tháng vẫn không đủ dùng/ Bữa cơm, bữa cháo nhạt nhùng/ Thôi đà nh nheo nhóc bọc đùm lấy nhau.
Ca dao không né tránh đấu tranh, sẵn sà ng vạch mặt: à”ng quan ở huyện Thanh Trì/ Miếng mỡ thì lấy, miệng bì thì chê...
Người Hà Nội thường tự hà o với câu ca dao xưa: Chẳng thơm cũng thể hoa nhà i/Dẫu chưa thanh lịch cũng người Trà ng An hoặc: Chẳng thơm cũng thể hoa mai/Chẳng lịch cũng thể con người Thượng Kinh. Trà ng An, Thượng Kinh là chỉ kinh đô, là Thăng Long, Hà Nội. Trong cuộc sống vận động nếp sống văn minh, câu ca dao đã biến dạng thà nh: Chẳng thơm cũng thể hoa nhà i/Chẳng thanh lịch cũng là người Thủ đô...Thay hai tiếng Thủ đô cho rõ rà ng, rà nh mạch hơn.
Trong kho tà ng ca dao Hà Nội cũng còn bao nhiêu câu khác hình tượng hóa sự thanh lịch ấy: Đất tốt trồng cây rườm rà /Những người thanh lịch nói ra dịu dà ng; Người thanh nói tiếng cũng thanh...
Thanh, lịch đã trở thà nh truyửn thống của người Thăng Long - Hà Nội, một vầng sáng của tâm thức Việt Nam. Nói đến thanh là nói đến sự thanh cao trong tư tưởng, đạo đức, tình cảm, tâm hồn; là nói đến thanh nhã trong nói năng, hà nh động; là nói đến thanh đạm trong cuộc sống đời thường và thanh liêm với của cải xã hội. Còn lịch, phải chăng là đử cập đến sự lịch lãm - xem nhiửu, lịch duyệt - hiểu rộng, lịch thiệp trong giao tiếp và trong ứng xử. Nếu như ở vế thanh, con người phải học tập, rèn luyện tu dườ¡ng mới có thì ở vế lịch lại do sự từng trải và kinh nghiệm sống đúc kết nên. Phải có cả thanh và lịch mới đầy đủ, trọn vẹn.
Thăng Long - Hà Nội là chốn hội tụ tinh hoa đất nước, trong đó có tinh hoa phẩm chất nhân cách và lối sống. Không chỉ hội tụ, mảnh đất trái tim tổ quốc nà y còn sà ng lọc, kết tinh hương hoa trăm miửn đử tạo nên bản sắc thanh lịch tiêu biểu cho mình, cho dân tộc mình, để rồi lại tửa sáng ra trăm miửn...
Thanh lịch không phải là thứ trừu tượng, nó được thể hiện rõ rệt trên nhiửu mặt của cuộc sống, trong nhiửu lĩnh vực: ăn nói, ăn mặc, ăn học, ăn là m, ăn ở, ăn uống, cho đến ăn chơi trong lối sống và trong các phong tục, tập quán khác. Nó cũng không phải là thứ bất biến mà có thay đổi điửu chỉnh, hoà n thiện, bổ sung, tước bử qua từng thời đại lịch sử, qua mỗi chế độ xã hội, để thích ứng với cuộc sống và phần nà o phù hợp với luật pháp đương thời.
Thanh lịch đã trở thà nh truyửn thống của người Thăng Long - Hà Nội
Những câu ca dao - ngạn ngữ nói vử cổ tích, truyửn thuyết Hà Nội nếu không dựng lại hình tượng của những nhân vật anh hùng chống giặc cứu dân thì cũng là phản ánh công cuộc xây dựng đất nước, thể hiện ý chí bất khuất, lòng yêu chuộng hòa bình, chính nghĩa của nhân dân ta. Truyện à”ng Gióng lên ba đã xin vua đúc ngựa sắt, roi sắt diệt giặc à‚n, lập xong chiến công kử³ vĩ đã không mà ng danh lợi, phi ngựa sắt vử trời.
Truyện đức Thánh Chèm - người dũng sĩ khổng lồ đã vang danh ngoà i biên ải nước láng giửng, già u sang phú quý không níu được chân, vẫn trở vử nằm xuống ở mảnh đất quê hương. Truyện An Dương Vương xây thà nh ốc được thần tiên giúp đỡ. Truyện ông Không Lộ dùng phép mà u thu đồng đen của nước phương Bắc đem vử đúc chuông, chuông gióng lên Trâu Và ng từ bên đó lồng sang giẫm nát một vùng thà nh Hồ Tây, rồi chạy vử phía Đông Nam, dấu chân vạch nên sông Kim Ngưu bây giử.
Thực và ảo đan xen, tạo mà n sương bao phủ lên cảnh vật, là m cho không gian Thăng Long - Hà Nội thêm diệu huyửn đậm đà chất tâm linh cổ kính.
Kho tà ng văn nghệ dân gian ấy là vốn quý cần được sưu tầm, khai thác, bảo vệ và phát huy tác dụng trong công tác giáo dục truyửn thống, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Lấy xưa phục vụ nay là phương châm đúng đắn của việc bảo tồn di sản văn hóa.
Qua ca dao cổ Hà Nội, ta cà ng thêm yêu mảnh đất nghìn năm văn vật. Mảnh đất đã nuôi dườ¡ng tâm hồn ta lớn lên cùng đất nước và Hà Nội cũng lớn lên cùng với dân tộc Việt Nam bất khuất, kiên cường.