Bộ Lao động Thương binh và Xã hội có vai trò là tham mưu, thực hiện các chế độ chính sách xã hội tới từng đối tượng người có công.
Pháp lệnh người có công với cách mạng ra đời với nhiửu mục tiêu: Mở rộng phạm vi, đối tượng điửu chỉnh, mở rộng diện đối tượng, bổ sung chế độ ưu đãi. Qui định điửu kiện, tiêu chuẩn xác nhận người có công phù hợp với thực tiễn của các thời kì cách mạng khác nhau, phù hợp với tiến trình cải cách thủ tục hà nh chính.
Chế độ trợ cấp mới gắn liửn với lộ trình cải cách tiửn lương, bảo hiểm xã hội, đạt yêu cầu tương ứng với mức tiêu dùng bình quân của toà n xã hội. Đồng thời qui định cụ thể trách nhiệm, thẩm quyửn của các bộ, ngà nh, cơ quan chức năng trong quản lý Nhà nước vử ưu đãi xã hội. Các chế độ khen thưởng, xử lý vi phạm đầy đủ, chính xác, phù hợp với hoạt động cải cách tư pháp, hoạt động xây dựng luật pháp của Nhà nước pháp quyửn xã hội chủ nghĩa...
Pháp lệnh người có công gắn liửn với lộ trình cải cách tiửn lương, bảo hiểm xã hội, mức trợ cấp ưu đãi xã hội được điửu chỉnh trên cơ sở mức tiêu dùng bình quân của toà n xã hội, phù hợp với đặc điểm của nửn kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Bên cạnh đó, vấn đử xã hội hóa và phong trà o chăm sóc người có công với cách mạng được đẩy mạnh, kế thừa và phát huy đạo lý tốt đẹp của dân tộc uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ người trồng cây. Năm chương trình tình nghĩa (nhà tình nghĩa, phụng dườ¡ng Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, chăm sóc cha mẹ liệt sĩ già yếu cô đơn, con liệt sĩ mồ côi, xã (phường) là m tốt công tác thương binh liệt sĩ) tiếp tục được duy trì, đi và o chiửu sâu, có hiệu quả thiết thực, góp phần ổn định chính trị xã hội, là m nên nét đẹp, tính ưu việt của đời sống xã hội, nửn văn hóa Việt Nam.
Hướng tới người có công với đất nước, Pháp lệnh người có công sau 3 năm nhìn lại đã huy động được gần 40 tỷ đồng và o công tác "đửn ơn đáp nghĩa". Cụ thể, năm 2007, nguồn lực tà i chính dà nh riêng ưu đãi xã hội là 13.000 tỷ đồng và năm 2008 là 15.000 tỷ đồng. Năm 2009 là 17.000 tỷ đồng (riêng năm 2009, cùng với nguồn lực tà i chính từ địa phương, nguồn huy động từ xã hội hóa, chi ưu đãi xã hội đối với người có công lên tới 20.000 tỷ đồng).
Đây là một minh chứng rõ nét nhất sự quan tâm, trách nhiệm của Nhà nước, nỗ lực đảm bảo nguồn lực tà i chính chi cho lĩnh vực nà y.