Để đến được Hang Ma, từ thị trấn Mộc Châu, di chuyển thêm 50km theo Quốc lộ 43 xuống Bến Trai, thuê một con thuyửn nhử chúng tôi xuôi sông Đà vử Bến Lồi xã Suối Bà ng. Rồi từ Bến Lồi đi bộ dăm cây số nữa thì mới đến được trung tâm xã. Hôm đó, chúng tôi được đích thân Chủ tịch xã Mùi Văn Mếu dẫn đường lên hang Khoang Tuống II, nơi có khoảng 18 mộ thuyửn còn khá nguyên vẹn. Nhìn lên dãy núi dựng đứng ai cũng lắc đầu lè lườ¡i nhưng rồi vẫn hăm hở leo lên.
Hang Ma ở Suối Bà ng. |
Đồng hà nh cùng chúng tôi có ông Mùi Văn Khương, theo lời ông, có nhiửu truyửn thuyết vử hang ma. Các cụ kể rằng những ngôi mộ táng trên các động kia đửu là những mộ chứa xương của một bộ tộc ăn thịt người. Như vậy những bộ xương trong động là xương những người đã bị ăn thịt. Cũng có một truyửn thuyết khác kể rằng: Cách đây hà ng trăm năm, người Xá và người Thái cùng ở trên mảnh đất Mộc Châu. Do có sự tranh chấp vử đất đai, họ chọn cách bắn tên để giải quyết. Nếu mũi tên của bên nà o bắn cắm và o vách đá nghĩa là thần núi, thần đất thuận cho ở, còn bên nà o thua phải đi khửi mảnh đất nà y. Họ đã đứng ở núi Cắm Tên (xã Mường Sang bây giử) bắn tên vử Suối Bà ng.
Người Xá dùng tên có bịt đồng ở đầu mũi tên nên bắn và o vách đá thì bị nảy ra, còn người Thái lấy sáp ong dính và o đầu mũi tên nên khi bắn và o vách đá, mũi tên dính lại. Từ đó, người Thái được ở lại trên mảnh đất nà y, còn người Xá phải ra đi, giữ đúng lời giao ước là không được sinh sống hay săn bắn, trồng trọt nơi đây nữa. Khi chết, người Xá không dám chôn cất trên đất của người Thái, đà nh lấy những thân gỗ to, khoét bử ruột để đưa người chết và o trong rồi giấu trên các vách đá cheo leo.
Chui qua những đám rễ cây, dây leo chằng chịt, phát đường mà đi trên những lớp lá cây mục bởi ít người đặt chân tới, khoảng nửa tiếng sau chúng tôi tới khu vực hang. Từ dưới đã nhìn thấy mái hang đá vôi kiểu vòm ếch, miệng hang rộng gần 2m, trần hang thấp. Ngay ngoà i cửa đã thấy các mộ thuyửn nằm ngổn ngang. Cái đã phủ rêu xanh, cái bị nước thấm mục ruỗng. Khom người chui sâu và o lòng hang mở rộng, thấy thêm các quan tà i khác. Các quan tà i đửu được là m bằng một thân cây khoét rỗng lòng theo hình cái bát. Cái lớn dà i chừng 2,5 mét, rộng 60 cm, lòng khoét rộng chừng 40cm. Hai mảnh nắp và thân quan tà i có 2 cặp quai đối xứng nhau cong lên và cong xuống như hình đuôi én (cả 4 đầu quan tà i là 4 cặp), cặp quai có đục lỗ hình vuông để nêm chốt khi úp 2 mảnh thân gỗ với nhau. Cái nhử dà i hơn 1 mét đoán chừng là của trẻ con, tất cả đửu đã bị cạy nắp, riêng quan tà i phía ngoà i cùng còn một mẩu xương giống xương tay. Tiến sâu hơn, trong lòng hang có một nhánh sâu hút, gần như thẳng đứng xuống lòng núi.
Theo những người dẫn đường thì những quan tà i hình thuyửn nà y trước đây hầu hết được kê gác lên các mửm đá nhô sát với trần hang, phía dưới có những đoạn cột chống, đầu đẽo chạc, hoặc giá đỡ như chiếc sừng trâu một cách chắc chắn. Do có nhiửu người tò mò đến xem đã tháo xuống và bật nắp ra xem nên các mộ thuyửn bị vứt ngổn ngang, nhiửu mộ đã bị vỡ. Cách hang Khoang Tuống một quãng, chếch lên phía chửm núi bên trái một chút có một cái hang nhử hơn, nhưng vách đá dựng đứng trong hang đặt 2 chiếc mộ thuyửn. Đôi mộ thuyửn nà y mặc dù đã bị hạ xuống nửn hang, nhưng còn khá nguyên vẹn, được đóng nắp và có hộp sọ người phía trong khoang.
Trên hà nh trình ngược sông Đà trở vử Mộc Châu, còn có một và i hang ma có thể nhìn thấy rõ một chiếc quan tà i mộ thuyửn đặt chông chênh trên vách đá ven sông. Người lái thuyửn kể, trước đây, hang nà y cheo leo trên vách đá dựng đứng, cao hơn mặt nước sông Đà , không có đường lên. Nay do tích nước là m thủy điện Sông Đà mới dễ dà ng lên được. Người lái thuyửn cho biết, ở bản Pưa Ta nơi ông ở có một hang ma chứa khoảng 20 bộ mộ thuyửn còn khá nguyên vẹn, nhưng vách đá khó trèo. Trong hang dựng một thân gỗ đinh thối khắc hình một cô gái đang múa.
Chuyến đi Suối Bà ng đã để lại những ấn tượng sâu sắc vử sự nồng nhiệt của người dân bản địa cũng như những nuối tiếc, băn khoăn. Những hang ma nà y có từ bao giử? Ai là chủ nhân của chúng? Tại sao và bằng cách nà o những quan tà i lớn như vậy có thể vận chuyển được lên những đỉnh núi, hang đá cao, độ dốc lớn? Là m sao để bảo vệ những cỗ quan tà i cổ trước ánh mắt tò mò, dòm ngó của những kẻ chuyên săn tìm cổ vật, khửi sự bà o mòn của khí hậu, thời gian...