Tôi thuộc lớp hậu sinh, lớp học trò của bác Phúc, được đọc các bà i viết của bác vử Hà Nội từ mấy chục năm trước, nhưng mãi đến năm 2005, khi vử là m việc ở Hà Nội mới gặp bác lần đầu. Tôi không bất ngử khi được tiếp chuyện bác bởi phong thái của một nhà giáo, một người từng trải trong một môi trường tôi đã từng quen nhưng tôi thực sự ngạc nhiên vử trí nhớ lạ lùng và những hiểu biết của bác vử mọi ngóc ngách của đất Kinh kử³. Lâu dần, dường như mọi việc liên quan đến văn hóa Hà Nội, đến việc đặt tên đường phố, chúng tôi đã được bác giúp rất nhiửu. Không phải chỉ có tôi phải chịu ơn bác mà nhiửu người đã được bác chỉ bảo, cho những lời khuyên rất chí tình cho công việc của mình.
Tiếp xúc với bác, đôi lần nghe bác tâm sự vử cuộc đời dạy học và gắn bó với những trang viết vử Hà Nội tôi mới hiểu thêm rằng, chính từ nhu cầu công việc, từ tình yêu với những gì mình gắn bó và cũng như run rủi của số phận mà suốt cuộc đời bác chỉ viết vử một đử tà i là Hà Nội. Dạy cả văn, sử, địa, bác thấy những tri thức sách vở chưa đủ để tạo nên sự hấp dẫn vử tri thức và sự sinh động cho bà i giảng nên dù không ai tổ chức, không bắt buộc nhưng bác đã tự mình thực hiện những cuộc điửn dã bất tận, tỉ mỉ, chi tiết, là m đi là m lại nhiửu lần. Nhiửu người kể rằng chỉ với một chiếc xe đạp, bác và học trò của mình đã ngang dọc khắp các hang cùng ngõ hẻm, là ng quê, góc phố và nhử các cuộc đi ấy, bác đã tích lũy được một kho tri thức khổng lồ vử đất và người Kinh kử³, vử những dấu tích đã bị lớp bụi năm tháng và những biến thiên là m mử đi, khuất lấp. Nhử đó, những bà i giảng của bác như có hồn hơn, các lớp sinh viên đến giử vẫn nhắc nghe thầy Phúc giảng sướng lắm.
Và những bà i viết của bác qua các trang báo ở trung ương và Hà Nội cứ dà y thêm. Theo năm tháng, số trang trong các công trình của bác đã đến nhiửu nghìn, và nói một cách ngắn gọn thì 15 đầu sách bác công bố từ năm 1956, hà ng nghìn bà i báo vử nhiửu lĩnh vực lịch sử, văn hóa, danh nhân, khảo cứu, tư liệu, địa lý, xã hội... đủ nói vử một sự nghiệp mà ngay cả nhiửu nhà nghiên cứu chuyên nghiệp cũng chưa là m được, đã nói đến công sức, trí tuệ bác dà nh cho công việc nà y. Rất nhiửu nhà nghiên cứu, người có nhu cầu tìm hiểu vử Hà Nội đã dựa và o những công trình của bác để tra cứu. Một phần lịch sử văn hóa Hà Nội đã sống dậy trong những công trình của bác.
Thế mà khi nói với tôi, bác vẫn nhử nhẹ:Tôi cứ cần cù như con ong thợ thế thôi ông ạ. Tha dần, luyện dần rồi thà nh mật. Chẳng biết thứ mật tôi là m ra chất lượng thế nà o nhưng cứ biết rằng mình đã cố hết sức, cố được đến thế là hết sức. Mình không hổ thẹn khi là m việc, còn chất lượng mình đâu có quyửn phán quyết. Khi tôi gặp một và i chuyện khó trong công việc, bác chủ động gặp và khuyên tôi cứ bình tĩnh mà gỡ dần. Bác hay nói Dục tốc bất đạt, ông ạ. Việc gì cũng cứ từ từ mà là m. Đừng quá nệ và o sự khen chê mà nên chú ý chuyện đúng, sai và cần hay không cần.
Nghe bác nói thế, tôi cà ng thấy trọng con người nà y hơn. Lại nhớ khi họp nghiệm thu công trình Địa chí Tây Hồ của bác, bác nói với hội đồng có lẽ đây là cuốn sách cuối cùng của tôi vì bây giử sức đã yếu, tự lượng thấy không nên là m thêm cái gì nữa kẻo lại dở dang. Mọi người động viên bác và mong còn được đọc thêm những sách mới của bác nhưng ai cũng thấy man mác buồn. Ai mà tránh được quy luật của tạo hóa? Mấy tháng sau, biết bác lâm bệnh trọng, gọi điện đến chỉ nghe nói tôi yếu đi nhiửu ông ạ, giử chỉ còn dườ¡ng bệnh và nếu hết lộc thì chỉ còn chử đến lúc đi thôi. Anh Hòa và tôi đến thăm bác, bác vẫn còn đùa được và khuyên chúng tôi là m việc nà y, việc nọ, chú ý thêm chỗ nà y, chỗ khác trong công việc của mình. Nhớ lại lúc còn khửe, khi rảnh, nói chuyện đời, bác bảo tôi: Cái danh xưng Nhà Hà Nội học mà ông V. tặng tôi, có người không đồng tình đâu ông ạ. Họ bảo là m gì có cái danh xưng ấy, mấy ông thích bốc nhau lên thì tự đặt ra thế thôi.
Tôi hửi bác: Thế ý cụ thế nà o?. Bác cười hóm hỉnh:Tôi đang hửi ông mà ông lại đẩy câu trả lời cho tôi. Thì người ta tặng mình cái tên ấy cũng không phải thù ghét gì. Nhận, hay không nhận đâu có quan trọng? à”ng ấy cũng chỉ là người dân chứ có quan cách gì đâu mà bảo là ban phát? Họ tặng cho người nà y hay người kia thì do ý thích của họ, ai cấm được?. Tôi nói, cái danh xưng ấy là một vinh dự, dù người đời chứ không cơ quan, tổ chức nà o tặng cho cụ cũng là một vinh dự, một vinh dự không phải ai cũng có thể đạt tới. Nó là những gì người ta cảm nhận từ những trang sách cụ viết, thế thì có gì phải băn khoăn? Biết đâu cụ lại là người Hà Nội duy nhất có danh xưng nà y thì sao?
Nghe tôi nói đến đây, bác cười, nụ cười nhẹ nhà ng mà ý nhị: Thì ông nói đấy nhé. Viết đến đây tôi lại như nghe thấy tiếng cười của bác và như câu chuyện mới xảy ra hôm nà o. Bác Phúc ơi, dù sau nà y có những nhà Hà Nội học khác nữa thì, bác vẫn là Nhà Hà Nội học đích thực, dù không có văn bằng chứng chỉ nà o chứng thực, nhưng với danh xưng ấy, bác đã và đang sống trong lòng người đời. Như thế, bác đã tạo dựng được một sự nghiệp để đời.