Đậm đà nét dân gian
Tên gốc của loại hình diễn xướng dân gian nà y là hát tà u tượng vì để biểu diễn người dân đóng những con voi và thuyửn khổng lồ bằng gỗ. Người tham gia diễn xướng được phân và o các vai chúa tà u, cái tà u (người chỉ huy tà u), con tà u, quản tượng. Dân gian quen gọi là chèo Tà u tổng Gối.
Việc khôi phục hội hát chèo Tà u tổng Gối bắt đầu từ những năm 1960 do Viện Nghiên cứu âm nhạc (Bộ Văn hóa trước đây) tổ chức với hình thức sưu tầm điửn dã. |
à”ng Đông Sinh Nhật “ phó chủ nhiệm câu lạc bộ chèo Tà u Tân Hội có hơn 20 năm nghiên cứu, cho rằng: Chèo Tà u duy nhất hát được trong khuôn viên lăng Văn Sơn và đửn Voi Phục “ tương truyửn là nửn nhà ở của Thà nh hoà ng là ng Văn Dĩ Thà nh.
Mặt bằng lễ hội được định hình bởi những chức sắc trong là ng. Các cụ cho xây một đại môn to phục vụ cho quan lại cấp phủ ra và o. Bên cạnh là có 4 tiểu môn dà nh cho chức sắc 4 thôn thuộc tổng Gối: Thượng Hội, Thúy Hội, Vĩnh Kử³ và Phan Long.
Ngoà i khu lăng mộ biểu diễn chèo Tà u còn có nhà tiửn tế, nhà đại bái, hậu cung và 4 ngọn đại kử³ ở 4 góc chỉ thị cho 4 thôn tọa liệt tại lễ hội. Theo ông Nhật thì sân khấu ngà y xưa rất tráng lệ, công phu nên giử đây không thể phục dựng nguyên bản.
Việc tuyển chọn người phục vụ cho hội hát hết sức công phu. Bốn là ng phải chọn ra được một mẹ chiêu quân (chúa Tà u) có tuổi từ 50-60 và phải là người có uy tín, đức hạnh, sắc đẹp mặn mà . Ngoà i ra, mỗi là ng phải chọn ra hai cái tà u và mười con Tà u tuổi từ 13-16 có khuôn mặt thanh tú, trắng trong. Bốn là ng còn có 50 cô gái xinh đẹp và 200 hà ng đô (nam giới) để phục vụ việc khiêng kiệu, cầm cử, rước lọng, đánh trống...
Suốt 7 ngà y hội chính, ngà y nà o cũng thể hiện tuần tự những thủ tục dâng tế, diễn xướng, hát giao duyên. Trước tiên, sau 3 bà i tuần rượu, 3 bà i chúc Thánh, các ca nhi phường 4 thôn quử³ trước lăng tẩm hát lệ trình trong nhã nhạc trống chiêng, phách nhịp. Khi hát xong và o lăng dâng hương rồi mới được ra lên thuyửn rồng để hát. Phần hai là hát trạo ca. Cuối cùng là hát giao duyên đến tận đêm thâu.
Tôn vinh người phụ nữ
à”ng Nhật vẫn đang nghiên cứu một giả thuyết: Ngà y xưa, khi việc giao thông trên sông nước nhiửu thì những người Hát Dô bên Quốc Oai, bên kia sông Hồng là miửn đất Tổ hát xoan, mạn sông Đuống là thủ phủ của quan họ hội tụ tại tổng Gối và sáng tạo nên là n điệu dân ca nà y.
Chèo Tà u tiếp thu tinh hoa, cái hay của mỗi vùng để tạo nên được nét riêng. Nét riêng phảng phất nét chung các vùng miửn. Chúng ta cảm thấy chèo Tà u giống là n điệu nà o đó nhưng nghe kử¹ không giống là n điệu nà o “ ông Nhật phân tích.
Nhưng có một điửu thú vị là là n điệu dân ca nà y chỉ có nữ hát, không có nam hát. Lần giở các câu chuyện truyửn miệng, ông Nhật lý giải: Sở dĩ chèo Tà u kén nữ là vì muốn tôn vinh người phụ nữ vốn xưa nay đảm đang, tần tảo. Chồng đi đánh giặc xa thì ở nhà cáng đáng chuyện nhà cửa, nuôi con, chăm sóc bố mẹ chồng.
Dân Tân Hội vẫn tự hà o một tích xưa cho rằng thời Hai Bà Trưng những năm chống quân xâm lược nhà Hán, kéo quân qua tổng Gối chiêu mộ binh lính, rèn mà i binh đao, xây dựng chiến tuyến để đứng lên khởi nghĩa. Trong lúc nghỉ ngơi, quân tướng của Hai Bà thường múa hát. Sau nà y ngườ¡ng mộ công lao và để tưởng nhớ đến Hai Bà , nhân dân đã đặt ra lệ hát múa chèo Tà u.
Lễ hội chèo Tà u đã bước qua khửi rà o cản trọng nam khinh nữ để phản ánh ý thức hệ của người vùng Gối tôn vinh người phụ nữ. Dù không trực tiếp tham gia và o bộ máy của xã hội nhưng người phụ nữ đóng vai trên một sân khấu lớn để khẳng định phụ nữ có quyửn tham dự chuyện đại sự quốc gia.