Ký giả xưa tâm sự về nghề báo

Hanoimoicuoituan| 20/06/2022 09:32

Trên trường ngôn luận, tờ báo và nhà báo đại diện cho thiên chức thông tin, phản ánh tình cảm, dư luận xã hội. Hànộimới Cuối tuần xin gửi tới độc giả quan điểm, lối nghĩ của các ký giả xưa về chức nghiệp thiêng liêng cao cả của nghề báo và của người làm báo.

Ký giả xưa tâm sự về nghề báo
Trong đời làm báo của mình, nhà văn Vũ Bằng đã kinh qua tòa soạn của nhiều tờ báo.

Chức nghiệp tờ báo

Nói về mối quan hệ của báo và dư luận, chủ bút Phạm Quỳnh của Nam Phong tạp chí cho rằng báo chí ra đời là bởi dư luận, dư luận tức là lòng dân, và báo chí cũng có sức biến cải dư luận được khi khơi gợi, định hướng dư luận. Bởi vậy, “nước Nam ta sau này hay hay dở, các nhà báo cũng có phần vào đấy. Nếu ta biết khéo dùng cái động lực rất mạnh là tờ báo, ngọn bút kia, mà gây thành được dư luận sáng suốt khôn ngoan, thông hiểu tình thế, giúp được cho cái công tiến hóa về chính trị của quốc dân, thì mới thực là xứng đáng với lương tâm cùng thiên chức của nhà nghề vậy” (trích “Thượng Chi văn tập”).

Ký giả Dương Bá Trạc quan niệm rằng, “muốn cho nước trở nên phú cường bằng người thì phải làm thế nào cho dân trí khai thông đã”, và ông xem báo chí chính là phương tiện làm việc ấy. Do vậy, sau khi được ân xá đầu năm 1917, Dương Bá Trạc quay sang viết báo, làm bỉnh bút cho tờ Nam Phong, rồi viết bài cho Trung Bắc Tân văn. Những bài viết đa phần là xã thuyết về chính trị, kinh tế và xã hội.

Viết báo khắp Bắc - Trung - Nam, nhà yêu nước Phan Bội Châu trình bày quan điểm về vai trò, vị trí của nghề báo trong bài “Một mối cảm tưởng về báo giới nước ta”, đăng trên báo Tân văn số 1 ra ngày 4-8-1934: “Người trong một nước tất phải có báo giới, báo giới có trách nhiệm rất to, và nghĩa vụ rất lớn. Cớ sao vậy? Bởi vì dư luận ở trong một nước, tất phải có tờ báo, mà có dư luận mới thành ra có cơ quan, dân tình ở trong một nước, tất cũng phải nhờ các nhà báo mới có thể thở hết những điều oan khổ. Trách nhiệm và nghĩa vụ của báo giới, thiệt lớn lao không biết chừng nào! Đêm trường mù mịt, mà may có ngọn đèn soi đường, giấc mộng say mê, mà may có tiếng chuông thức tỉnh. Chẳng nhờ báo giới thời biết nhờ vào ai?”.

“Ở nước Nam mình, các nhà làm báo quốc văn không được phóng bút như các bậc đàn anh tân tiến, nhưng đối với quốc dân, không phải không giúp ích được nhiều. Việc nâng cao trí thức đám bình dân, việc truyền bá tư tưởng Âu tây trong dân gian, việc thức tỉnh đồng bào trong cơn mê mộng, một phần lớn lại chả phải là công của báo, chí quốc văn ư”. Đó là lời ông Vũ Công Định, quản lý Tiểu thuyết tuần san, về vai trò của báo chí quốc văn đối với quốc dân trong bài “Nghề làm báo ở nước ta, lâu tiến bộ, lỗi tại ai?” trên Tiểu thuyết tuần san số 52 (ra ngày 22 đến 29-7-1934). Còn Chủ nhiệm báo Tin mới Mai Văn Hàm khi nói về sức mạnh của báo chí đối với quần chúng thì nêu: “Tôi nhận thấy báo chí có một sức mạnh tuyệt đối để giác ngộ quần chúng mà tất cả chúng ta đoàn kết chặt chẽ lại thì sức mạnh đó lại càng gấp bội”.

Đầu thế kỷ XX, khi chiếu bóng, truyền thanh còn chưa thịnh, báo chí có công lớn trong việc thông tin tin tức trong và ngoài nước, truyền bá tư tưởng... và cổ động các hoạt động, phong trào. Đáng kể nhất phải nói đến công lao của báo chí đối với quốc ngữ, như học giả Đào Duy Anh nhận xét trong Việt Nam văn hóa sử cương: “Nhưng có công bồi đắp và cổ lệ cho Việt ngữ nhất, khiến cho quốc dân sinh lòng tự tín đối với ngôn ngữ nước nhà, thì chính là ông Phạm Quỳnh chủ trương tạp chí Nam Phong và ông Nguyễn Văn Vĩnh chủ trương tập Âu tây tư tưởng”.

Trước tháng 8-1945, những người cộng sản đã dùng báo chí làm vũ khí đấu tranh với chính quyền thực dân, phong kiến. Nhà cách mạng Hoàng Quốc Việt trong “Nhân dân ta rất anh hùng” kể rằng từ năm 1936 báo công khai của Đảng Cộng sản Đông Dương được xuất bản, phát hành công khai ngay tại Hà Nội và do Trường Chinh làm “giám đốc chính trị tất cả các cơ quan ngôn luận của Đảng ở Bắc Kỳ” từ mùa thu năm 1937. Đây là “lần đầu tiên, lao động Việt Nam có tiếng nói của mình trên mặt trận báo chí công khai” với những nội dung đòi quyền tự do dân chủ.

Ký giả xưa tâm sự về nghề báo

Vị trí của nhà báo

Nói về nghề của mình, “ngự sử trên văn đàn” Phan Khôi xem đó là “nghề thần thánh”. Vũ Bằng thì chia sẻ trong “Bốn mươi năm nói láo” về việc làm báo, rằng cứ phải làm bỉnh bút cho một tờ nhật báo nào đó mới đúng nghĩa nhà báo. Ngược lại, làm báo cho tạp chí, hay tuần báo thì... chưa phải làm báo. Mà bước chân vào cái nghề này, Vũ Ngọc Phan trong “Trên đường nghệ thuật” cho rằng, sự ham chuộng đối với nghề là nằm ở những tay trí thức.

Nghề này dạo ấy là một nghề thậm vất vả, phải "giật gấu vá vai" đắp đổi qua ngày. Mà thường thấy khi ấy, những Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam... của Tự lực văn đoàn (báo Phong hóa, Ngày nay) hay Nguyễn Văn Tố, Nguyễn Tường Phượng, Trần Huy Bá... của Tri tân; Vũ Đình Hòe, Đinh Gia Trinh, Đỗ Đức Dục... của Thanh nghị thường “đứng hai chân”.

Họ làm nhà báo, cũng đồng thời là nhà văn, nhà thơ hay nhà khảo cứu. Hai cái nghề văn, thơ - báo ấy dính liền với nhau như không tách rời được. Chẳng nói đâu xa, như Thạch Lam viết báo Phong hóa, Ngày nay, nhưng cũng đồng thời là tác giả của “Gió đầu mùa” (1937), “Nắng trong vườn” (1938), “Ngày mới” (1939)... Vũ Trọng Phụng viết báo nhưng cũng là tác giả của “Số đỏ”, “Giông tố”, “Làm đĩ”...

Viết đến thế, mà phận nghèo vẫn hoàn nghèo. Những nhà văn, nhà báo khi thành danh vẫn “đứng hai chân”, một bên báo, một bên nhà xuất bản. Song như vậy vẫn còn may chán. Với những người chập chững bước vào làng viết lách, để nên được cái chân viết báo, cực khổ trăm bề. Viết “Chuyện Hà Nội”, Vũ Ngọc Phan chia sẻ, nhiều thanh niên bước chân vào nghề, vẫn còn cái cảm giác của kẻ được đăng bài như cung phi nhớ vua:

“Trên chín bệ có hay chăng nhẽ?
Khách quần thoa mà để lạnh lùng!”

Nghề viết không đủ sống, hoặc sống lay lắt qua ngày, sống tạm bợ với những đồng nhuận bút còm cõi, phải ứng trước viết sau, lại thêm nhiều khi các báo gặp bao lý do nào là thiếu vốn, nào bị đình bản... dẫn đến chết bất đắc kỳ tử, thế nên không ngạc nhiên khi nhiều nhà báo "nhảy việc" như con thoi. Lấy Vũ Bằng là một dẫn chứng.

Trong đời làm báo của mình, tác giả của “Thương nhớ mười hai”, “Bốn mươi năm nói láo” đã kinh qua biết bao nhiêu tòa soạn, bao nhiêu tờ báo, có lẽ kể không hết được những tên báo Việt nữ, Vịt đực, Tiểu thuyết thứ bảy, Trung Việt Tân văn... Một người họ Vũ khác, nhưng là Vũ Trọng Phụng, viết miệt mài là thế nhưng vẫn phải lo chạy ăn từng bữa, đến khi mất đi, vợ trẻ con thơ và mẹ già, gia cảnh vẫn bần hàn lắm.

Đến như những ông chủ làm báo, cũng chẳng sung sướng gì, suốt ngày phải lo việc xoay tiền cho báo tồn tại, để trả nhuận bút, để lấy báo từ nhà in... Thế nên khi biết Vũ Bằng đi theo nghề báo, mẹ ông vốn bán sách, bán giấy lo lắng, dẫn chứng sự bạc bẽo của nghề từ những gì mình tai nghe mắt thấy, nào ông Thực nghiệp mua giấy in thì chịu đến 3 tháng chưa trả một xu; nào ông Khai hóa méo mặt vì tiền; lại ông Bạn dân “đi ăn mày vì làm báo”. Bà cho rằng “nghề báo là một nghề bạc bẽo, không nuôi sống được người làm nghề”. Dẫu nghề báo vất vả, khổ ải là thế, nhưng những ai đã đam mê, dấn thân vào nghiệp báo lại yêu và gắn với nghề thật lâu. Và trong lĩnh vực này, nhiều tay hào kiệt của làng báo theo dòng thời gian đã khẳng định được mình, như Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Khôi, Hoàng Tích Chu..., những người lịch sử báo chí đã ghi danh trong sách “Lịch trình tiến hóa sách báo quốc ngữ” (Nhà in Tân dân, 1942).

(0) Bình luận
  • Nhà văn Hoàng Quốc Hải: “Một nhà văn đúng nghĩa phải đồng thời là một nhà văn hóa”
    Nhà văn Hoàng Quốc Hải sinh năm 1938 tại Hải Dương là một trong những cây bút tên tuổi của văn học Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh vực tiểu thuyết lịch sử. Trước khi chuyên tâm sáng tác, ông từng là phóng viên báo Vùng mỏ (nay là báo Quảng Ninh), rồi làm biên tập viên tập Sáng tác Hà Nội - tiền thân của tạp chí Người Hà Nội. Với sự nghiệp trải dài hơn nửa thế kỷ, ông đã để lại dấu ấn sâu đậm qua hai bộ tiểu thuyết đồ sộ “Tám triều vua Lý” và “Bão táp triều Trần”. Những tác phẩm này không chỉ tái hiện chân thực lịch sử dân tộc mà còn thể hiện tình yêu sâu sắc của ông đối với Hà Nội - mảnh đất nghìn năm văn hiến. Hãy cùng lắng nghe nhà văn chia sẻ về hành trình sáng tác, những trăn trở về đề tài lịch sử và lời nhắn gửi tâm huyết đến thế hệ trẻ yêu nghề viết.
  • Nhà văn Tô Hoài: Người “thuyền trưởng” tâm huyết và bản lĩnh
    Trong chặng đường 40 năm của Tạp chí Người Hà Nội, dấu ấn của nhà văn Tô Hoài - Tổng Biên tập đầu tiên vẫn luôn hiện hữu sâu đậm. Không chỉ là người đặt nền móng, định hướng phát triển cho tờ báo, ông còn là người truyền cảm hứng về một cách làm báo cẩn trọng, tinh tế, nhân văn và tràn đầy trách nhiệm.
  • Người Hà Nội trong tôi
    Suốt hành trình 40 năm xây dựng và phát triển, Người Hà Nội luôn nhận được sự đồng hành, đóng góp các cây bút thuộc nhiều thế hệ, trong và ngoài nước, từ chuyên nghiệp đến không chuyên. Qua mỗi bài viết, họ đã mang đến những góc nhìn, cảm xúc mới mẻ góp phần gìn giữ bản sắc riêng của tạp chí. Dưới đây là những chia sẻ chân thành của một số cộng tác viên về kỷ niệm và sự gắn bó sâu sắc mà họ dành cho tạp chí Người Hà Nội trong suốt những năm qua.
  • Vài kỉ niệm với tập “Sáng tác Hà Nội”
    Chi hội Văn nghệ Hà Nội (sau là Hội Văn nghệ Hà Nội - tiền thân của Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Hà Nội) được thành lập vào tháng 10 năm 1966.
  • Người Hà Nội - 40 năm đồng hành với văn nghệ sĩ Thủ đô
    Tạp chí Người Hà Nội tiền thân là ấn phẩm Sáng tác Hà Nội do Chi hội Văn nghệ Hà Nội (nay là Hội Liên hiệp VHNT Hà Nội) phát hành từ năm 1967. Ngay từ thuở ban đầu, ấn phẩm là một diễn đàn nhỏ nhưng có sức sống mạnh mẽ, nhanh chóng trở thành nơi quy tụ các sáng tác của văn nghệ sĩ Hà Nội.
  • "Người Hà Nội" đã và đang làm tốt sứ mệnh lan tỏa văn hóa Thủ đô ngàn năm văn hiến
    "Người Hà Nội" sẽ mừng "sinh nhật" tuổi 40 vào ngày 8/5/2025. Chặng đường 40 năm xây dựng và phát triển, Người Hà Nội đã có được một “hệ thống” cộng tác viên là văn nghệ sỹ ở nhiều lĩnh vực: văn học, mỹ thuật, nhiếp ảnh, điện ảnh, lý luận phê bình;… các nhà báo, nhà nghiên cứu, nhà khoa học hàng đầu Thủ đô và cả nước.
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
  • Khai mạc Lễ hội Văn hóa Thế giới Hà Nội lần thứ nhất
    Tối 10/10, Lễ hội Văn hóa Thế giới tại Hà Nội lần thứ nhất - năm 2025 chính thức khai mạc tại Trung tâm Di sản Hoàng thành Thăng Long - Di sản Văn hóa Thế giới được UNESCO công nhận. Sự kiện do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp với Bộ Ngoại giao và Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội tổ chức.
  • 16 tác phẩm được trao giải thưởng Triển lãm Mỹ thuật Thủ đô năm 2025
    Triển lãm Mỹ thuật Thủ đô năm 2025 do Hội Mỹ thuật Hà Nội tổ chức vừa khai mạc tại Trung tâm Triển lãm văn hóa nghệ thuật Việt Nam (số 2 Hoa Lư, Vân Hồ, Hà Nội). Sự kiện diễn ra đúng dịp kỷ niệm 71 năm Ngày Giải phóng Thủ đô (10/10/1954 – 10/10/2025), là hoạt động ý nghĩa, thiết thực của giới văn học nghệ thuật Thủ đô, đặc biệt là đội ngũ nghệ sĩ tạo hình.
  • Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người đặt nền tảng định hướng phát triển Thủ đô Hà Nội
    GS.TS Phùng Hữu Phú, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng - nguyên Phó Bí thư Thường trực Thành ủy Hà Nội, nguyên Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Lý luận Trung ương, khẳng định: “Với tầm nhìn xa trông rộng, suy nghĩ, ý tưởng và những ý kiến chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt nền tảng định hướng phát triển Thủ đô Hà Nội trong hơn 70 năm qua”.
  • Tổ chức Triển lãm ảnh "Sắc màu các dân tộc Việt Nam"
    Ngày 10/10, Bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch (VHTTDL) đã ban hành Quyết định số 3597/QĐ – BVHTTDL về việc tổ chức Triển lãm ảnh "Sắc màu các dân tộc Việt Nam" thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi năm 2025 của Bộ VHTTDL.
  • Chủ tịch UBND Thành phố chỉ đạo khẩn trương khắc phục hậu quả vụ cháy khiến 5 người tử vong tại phố Kim Hoa
    Sáng 11/10, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội Trần Sỹ Thanh đã kiểm tra hiện trường và chỉ đạo khắc phục hậu quả vụ cháy nhà dân khiến 5 người tử vong tại ngõ 180 phố Kim Hoa (phường Văn Miếu - Quốc Tử Giám).
Đừng bỏ lỡ
Ký giả xưa tâm sự về nghề báo
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO