Theo sử sách còn ghi lại, ngay từ thuở nhử Giang Văn Minh đã là một cậu bé khôi ngô tuấn tú, học đâu nhớ đấy, văn thơ lưu loát, ứng đối lanh lợi, tiếng tăm lừng lẫy khắp vùng. Chính vì thế, sau khi đỗ đầu kì thi Hội, rồi lại đỗ Đình nguyên Thám hoa, ông lần lượt được bổ nhiệm và o các chức vụ như Binh khoa đô cấp sự trung (1630), Thái bộc tự khanh (1631). Năm 1637, Thám hoa Giang Văn Minh được vua cử là m chánh sứ cùng với bốn vị phó sứ là Nguyễn Quang Minh, Trần Nghi, Nguyễn Bình và Thân Khuê dẫn đầu hai đoà n đi sứ nhà Minh.
Chỉ trong hai năm thực hiện sứ mệnh ngoại giao cho đất nước, sứ thần Giang Văn Minh đã thể hiện rõ ý chí kiên cường không chịu khuất phục của nhân dân An Nam trước sự bà nh trướng hống hách của nhà Minh. Có rất nhiửu giai thoại vử sự ứng biến linh hoạt của nhà ngoại giao nà y trong thời kì ông cùng đoà n tuử³ tùng thực hiện sứ mệnh cao cả nhà vua giao phó.
Nhà thử Thám hoa Giang Văn Minh
Lần đầu tiên là ngay khi phái bộ của Giang Văn Minh sang đến Yên Kinh (nay là Bắc Kinh). Thời điểm đó sắp đến tiết khánh thọ nên đoà n sứ bộ không được và o yết kiến ngay mà phải ăn chực nằm chử ở ngoà i. Thêm điửu nữa là những tên quan đại thần nhà Minh còn tử ý khinh thường sứ thần An Nam, chúng không thèm tiếp và luôn miệng hạch sách. Giang Văn Minh hết sức căm phẫn, một mặt ông luôn nghĩ trong đầu cách đối phó với nhà Minh, mặt khác vẫn cố gắng là m tròn sứ mệnh của vua Lê đã giao.
Một hôm, nhân ngà y tiết khánh thọ của vua Minh, tất cả sứ thần các nước đửu mũ áo chỉnh tử, mang theo lễ vật, riêng sứ thần An Nam lại nằm khóc lóc thảm thiết, cố ý để việc nà y lọt được đến tai vua. Được tin báo, vua Minh bèn cho gọi ông Minh và o chầu. Khi được hửi nguyên cớ, sứ thần Giang Văn Minh bèn tâu: Theo lệnh vua Lê, sứ thần được sang triửu cống quý quốc thấm thoát đã hà ng năm lưu lạc trên đất khách quê người nhưng vẫn chưa là m tròn trọng trách, còn lòng dạ đâu mà vui được. Nay đã đến ngà y giỗ vị tằng tổ của thần mà thần vẫn chưa được vử quê hương đèn hương tưởng niệm, như vậy chẳng là đắc tội với tiên tổ hay sao?, rồi lại ôm mặt mà khóc. Nghe rõ sự tình, vua Minh liửn cười mà phán rằng: Nhà ngươi quả là một người trung hiếu vẹn toà n.
Những tưởng chuyện gì chứ việc ông tổ đã ba đời rồi đến nay còn gì rà ng buộc tình cảm nữa mà phải lo mang tiếng với người đời chỉ vì không vử được quê hương tưởng niệm. Nghe xong vua Minh phán, biết kế sách của mình đã đi đúng hướng, sứ thần Giang Văn Minh liửn tâu rằng: Thần cũng nghĩ vậy, nhưng khốn nỗi, người đời có nghĩ thế đâu! Ngay như việc Thiên triửu bắt dân tôi năm nay lại phải cống người và ng để trả nợ Liễu Thăng mà Liễu Thăng thì đã chết cách hơn 200 năm rồi. Chuyện cũ đã mử, mà dân tôi hà ng năm cũng vẫn còn chưa được Thiên triửu xoá bử lệ cũ. Hơn nữa vua tôi nhà Lê có tội gì đâu mà hà ng năm Thiên triửu vẫn đòi lễ cống! Đó chẳng phải là một việc vô lý, trái với đạo lý và thể diện của Quốc vương tôi sao? Ngà y nay, Thiên triửu khuyên thần đừng thương nhớ người đã quá cố, thì thần cũng xin Thiên triửu noi theo mệnh lớn mà từ nay miễn cho nước tôi lệ đúc người và ng để tiến cống nữa. Đó chẳng phải là một việc tốt để gây lại mối giao hảo bửn vững giữa hai nước láng giửng?.
Trước lời tâu chân tình, lý lẽ đanh thép và đầy sức thuyết phục đó, vua Minh cũng tự thấy việc bắt dân An Nam hà ng năm vẫn phải dâng lệ cống người và ng để trả nợ Liễu Thăng là vô lý, nên đã ra lệnh bãi bử lệ cống người và ng và cũng từ đây hà ng năm dân ta chấm dứt được cái việc trả nợ Liễu Thăng.
Một giai thoại khác tuy có nhuốm mà u bi thương nhưng cũng thể hiện rõ cốt cách tà i cán của nhà ngoại giao Giang Văn Minh. Đó là và o một buổi nắng ráo sau gần một năm chử đợi mà vẫn chưa được và o yết kiến, sứ thần Giang Văn Minh liửn đem mũ áo và đồ văn thư nghiên bút ra phơi nắng, tiện thể ông cởi áo, phanh ngực và bụng ra để sưởi nắng. Bọn cận thần của vua Minh thấy sứ giả An Nam có hà nh động lạ thường, bèn và o tâu với vua Minh.
Khi được hửi tại sao sứ thần không đi chơi ngắm cảnh trong tiết thanh minh mà lại nằm phanh bụng ra phơi nắng, ông Minh liửn tâu: Chẳng giấu gì Thiên triửu, thần từ nhử vốn ham đọc sách thánh hiửn, học đâu nhớ đấy nên bao nhiêu bồ chữ trong thiên hạ, thần đã thu vử để nằm im trong bụng. Từ ngà y sang quý quốc, khí hậu ẩm thấp, thần sợ chữ sách thánh hiửn lâu ngà y không dùng đến sẽ bị mốc nên nhân ngà y nắng ấm, thần vạch bụng ra phơi cho khửi mốc chữ đó mà thôi!. Biết người đứng trước mặt mình không phải hạng tầm thường, vua Minh bèn vời Giang Văn Minh và o triửu và ra một vế đối để thử tà i cao học rộng và trí thông minh của sứ thần An Nam. Vế đối được đưa ra là :
Đồng trụ chí kim đà i dĩ lục Nghĩa là : Cột đồng đến nay rêu đã xanh
Câu nà y có hà m ý nhắc tới việc Mã Viện từng đà n áp cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, sau đó cho chôn một chiếc cột đồng với lời nguyửn: Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt (Cột đồng gãy thì Giao Chỉ - tức Đại Việt - bị diệt vong).
Trước sự ngạo mạn đó, Giang Văn Minh đã hiên ngang đối lại bằng câu: "Đằng Giang tự cổ huyết do hồng" Nghĩa là : Sông Đằng từ xưa máu còn đó
Vế đối thật hoà n chỉnh, lời lẽ đanh thép và đầy khí phách anh hùng của người chiến thắng, cố ý muốn nhắc lại chuyện Ngô Quyửn đánh tan quân Nam Hán (938), Lê Hoà n đánh tan quân Tống (981) và Trần Hưng Đạo đánh tan quân Nguyên Mông (1288) trên sông Bạch Đằng, để nhắc lại cái nhục của những quân xâm lược phương Bắc đã bao lần muốn cướp nước Nam ta nhưng đửu bị đánh cho tơi bời, tan tác. Và o thời bấy giử, câu đối nà y được xem là cái tát thẳng và o mặt hoà ng đế nhà Minh trước đông đảo văn võ bá quan của Thiên triửu và sứ bộ các nước. Vua nhà Minh bừng bừng lửa giận quên mất thể diện thiên triửu, bất chấp luật lệ bang giao, đã trả thù bằng cách trám đường và o miệng và mắt ông, rồi cho người mổ bụng xem bọn sứ thần An Nam to gan lớn mật đến đâu. Hà nh động hèn hạ của nhà Minh nà y diễn ra và o năm 1639, chỉ hai năm sau ngà y Thám hoa Giang Văn Minh dẫn đoà n đi sứ. Lúc đó ông 57 tuổi.
Mặc dù nghĩa vụ đi sứ dở dang nhưng đoà n sứ bộ do Thám hoa Giang Văn Minh dẫn đầu đã tử rõ khí phách hiên ngang của người dân An Nam không khuất phục trước ách đô hộ của Trung Quốc. Sau khi thi hà i ông được đưa vử nước, để tử lòng thương tiếc một tà i năng ngoại giao hiếm thấy của kinh thà nh, vua Lê Thần Tông và chúa Trịnh Tráng đã đến bái kiến linh cữu ông và ban tặng câu Sứ bất nhục quân mệnh, khả vi thiên cổ anh hùng (tức là Sứ thần không là m nhục mệnh vua, xứng đáng là anh hùng thiên cổ, đồng thời truy tặng ông tước hiệu Công bộ tả thị lang Minh quận công.
Hiện nay, ngôi mộ của Thám hoa Giang Văn Minh vẫn được họ tộc chăm chút cẩn thận tại Đường Lâm, được xây bệ gạch tay ngai, xung quanh có tường hoa để bảo vệ. Còn ngôi quán, nơi là m lễ an táng ông, được nhân dân địa phương gọi là quán Giang để ghi nhớ sự tích của vị sứ thần khảng khái đã là m vẻ vang cho đất nước. Tên của Thám hoa Giang Văn Minh cũng được đặt cho một ngôi trường ở Thị xã Sơn Tây và một con phố ngay giữa Thủ đô Hà Nội cũng vinh dự mang tên người anh hùng trên mặt trận ngoại giao nà y.