Giang Văn Minh - Người con Thăng Long là m rạng danh đất nước

Chuyển động Hà Nội - Ngày đăng : 13:40, 14/08/2013

(NHN) Giang Văn Minh tự là  Quốc Hoa, hiệu Văn Chung, sinh năm 1573 tại là ng Kẻ Mía, xã Mông Phụ, tổng Cam Giá (nay là  xã Аường Lâm, Thị xã Sơn Tây, Hà  Nội). à”ng được mệnh danh là  vị sứ thần Bất nhục quân mệnh (Không để nhục mệnh vua) vì đã dám đối đáp th?ng thắn trước triửu đình nhà  Minh.

Theo sử­ sách còn ghi lại, ngay từ thuở nhử Giang Văn Minh đã là  một cậu bé khôi ngô tuấn tú, học đâu nhớ đấy, văn thơ lưu loát, ứng đối lanh lợi, tiếng tăm lừng lẫy khắp vùng. Chính vì thế, sau khi đỗ đầu kì thi Hội, rồi lại đỗ Аình nguyên Thám hoa, ông lần lượt được bổ nhiệm và o các chức vụ như Binh khoa đô cấp sự trung (1630), Thái bộc tự khanh (1631). Năm 1637, Thám hoa Giang Văn Minh được vua cử­ là m chánh sứ cùng với bốn vị phó sứ là  Nguyễn Quang Minh, Trần Nghi, Nguyễn Bình và  Thân Khuê dẫn đầu hai đoà n đi sứ nhà  Minh.

Chỉ trong hai năm thực hiện sứ mệnh ngoại giao cho đất nước, sứ thần Giang Văn Minh đã thể hiện rõ ý chí kiên cường không chịu khuất phục của nhân dân An Nam trước sự bà nh trướng hống hách của nhà  Minh. Có rất nhiửu giai thoại vử sự ứng biến linh hoạt của nhà  ngoại giao nà y trong thời kì ông cùng đoà n tuử³ tùng thực hiện sứ mệnh cao cả nhà  vua giao phó.

Nhà  thử Thám hoa Giang Văn Minh

Lần đầu tiên là  ngay khi phái bộ của Giang Văn Minh sang đến Yên Kinh (nay là  Bắc Kinh). Thời điểm đó sắp đến tiết khánh thọ nên đoà n sứ bộ không được và o yết kiến ngay mà  phải ăn chực nằm chử ở ngoà i. Thêm điửu nữa là  những tên quan đại thần nhà  Minh còn tử ý khinh thường sứ thần An Nam, chúng không thèm tiếp và  luôn miệng hạch sách. Giang Văn Minh hết sức căm phẫn, một mặt ông luôn nghĩ trong đầu cách đối phó với nhà  Minh, mặt khác vẫn cố gắng là m tròn sứ mệnh của vua Lê đã giao.

Một hôm, nhân ngà y tiết khánh thọ của vua Minh, tất cả sứ thần các nước đửu mũ áo chỉnh tử, mang theo lễ vật, riêng sứ thần An Nam lại nằm khóc lóc thảm thiết, cố ý để việc nà y lọt được đến tai vua. Аược tin báo, vua Minh bèn cho gọi ông Minh và o chầu. Khi được hửi nguyên cớ, sứ thần Giang Văn Minh bèn tâu: Theo lệnh vua Lê, sứ thần được sang triửu cống quý quốc thấm thoát đã hà ng năm lưu lạc trên đất khách quê người nhưng vẫn chưa là m tròn trọng trách, còn lòng dạ đâu mà  vui được. Nay đã đến ngà y giỗ vị tằng tổ của thần mà  thần vẫn chưa được vử quê hương đèn hương tưởng niệm, như vậy chẳng là  đắc tội với tiên tổ hay sao?, rồi lại ôm mặt mà  khóc. Nghe rõ sự tình, vua Minh liửn cười mà  phán rằng: Nhà  ngươi quả là  một người trung hiếu vẹn toà n.

Những tưởng chuyện gì chứ việc ông tổ đã ba đời rồi đến nay còn gì rà ng buộc tình cảm nữa mà  phải lo mang tiếng với người đời chỉ vì không vử được quê hương tưởng niệm. Nghe xong vua Minh phán, biết kế sách của mình đã đi đúng hướng, sứ thần Giang Văn Minh liửn tâu rằng: Thần cũng nghĩ vậy, nhưng khốn nỗi, người đời có nghĩ thế đâu! Ngay như việc Thiên triửu bắt dân tôi năm nay lại phải cống người và ng để trả nợ Liễu Thăng mà  Liễu Thăng thì đã chết cách hơn 200 năm rồi. Chuyện cũ đã mử, mà  dân tôi hà ng năm cũng vẫn còn chưa được Thiên triửu xoá bử lệ cũ. Hơn nữa vua tôi nhà  Lê có tội gì đâu mà  hà ng năm Thiên triửu vẫn đòi lễ cống! Аó chẳng phải là  một việc vô lý, trái với đạo lý và  thể diện của Quốc vương tôi sao? Ngà y nay, Thiên triửu khuyên thần đừng thương nhớ người đã quá cố, thì thần cũng xin Thiên triửu noi theo mệnh lớn mà  từ nay miễn cho nước tôi lệ đúc người và ng để tiến cống nữa. Аó chẳng phải là  một việc tốt để gây lại mối giao hảo bửn vững giữa hai nước láng giửng?.

Trước lời tâu chân tình, lý lẽ đanh thép và  đầy sức thuyết phục đó, vua Minh cũng tự thấy việc bắt dân An Nam hà ng năm vẫn phải dâng lệ cống người và ng để trả nợ Liễu Thăng là  vô lý, nên đã ra lệnh bãi bử lệ cống người và ng và  cũng từ đây hà ng năm dân ta chấm dứt được cái việc trả nợ Liễu Thăng.

Một giai thoại khác tuy có nhuốm mà u bi thương nhưng cũng thể hiện rõ cốt cách tà i cán của nhà  ngoại giao Giang Văn Minh. Аó là  và o một buổi nắng ráo sau gần một năm chử đợi mà  vẫn chưa được và o yết kiến, sứ thần Giang Văn Minh liửn đem mũ áo và  đồ văn thư nghiên bút ra phơi nắng, tiện thể ông cởi áo, phanh ngực và  bụng ra để sưởi nắng. Bọn cận thần của vua Minh thấy sứ giả An Nam có hà nh động lạ thường, bèn và o tâu với vua Minh.

Khi được hửi tại sao sứ thần không đi chơi ngắm cảnh trong tiết thanh minh mà  lại nằm phanh bụng ra phơi nắng, ông Minh liửn tâu: Chẳng giấu gì Thiên triửu, thần từ nhử vốn ham đọc sách thánh hiửn, học đâu nhớ đấy nên bao nhiêu bồ chữ trong thiên hạ, thần đã thu vử để nằm im trong bụng. Từ ngà y sang quý quốc, khí hậu ẩm thấp, thần sợ chữ sách thánh hiửn lâu ngà y không dùng đến sẽ bị mốc nên nhân ngà y nắng ấm, thần vạch bụng ra phơi cho khửi mốc chữ đó mà  thôi!. Biết người đứng trước mặt mình không phải hạng tầm thường, vua Minh bèn vời Giang Văn Minh và o triửu và  ra một vế đối để thử­ tà i cao học rộng và  trí thông minh của sứ thần An Nam. Vế đối được đưa ra là :

Аồng trụ chí kim đà i dĩ lục Nghĩa là : Cột đồng đến nay rêu đã xanh

Câu nà y có hà m ý nhắc tới việc Mã Viện từng đà n áp cuộc khởi nghĩa Hai Bà  Trưng, sau đó cho chôn một chiếc cột đồng với lời nguyửn: Аồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt (Cột đồng gãy thì Giao Chỉ - tức Аại Việt - bị diệt vong).

Trước sự ngạo mạn đó, Giang Văn Minh đã hiên ngang đối lại bằng câu: "Аằng Giang tự cổ huyết do hồng" Nghĩa là : Sông Аằng từ xưa máu còn đó

Vế đối thật hoà n chỉnh, lời lẽ đanh thép và  đầy khí phách anh hùng của người chiến thắng, cố ý muốn nhắc lại chuyện Ngô Quyửn đánh tan quân Nam Hán (938), Lê Hoà n đánh tan quân Tống (981) và  Trần Hưng Аạo đánh tan quân Nguyên Mông (1288) trên sông Bạch Аằng, để nhắc lại cái nhục của những quân xâm lược phương Bắc đã bao lần muốn cướp nước Nam ta nhưng đửu bị đánh cho tơi bời, tan tác. Và o thời bấy giử, câu đối nà y được xem là  cái tát thẳng và o mặt hoà ng đế nhà  Minh trước đông đảo văn võ bá quan của Thiên triửu và  sứ bộ các nước. Vua nhà  Minh bừng bừng lử­a giận quên mất thể diện thiên triửu, bất chấp luật lệ bang giao, đã trả thù bằng cách trám đường và o miệng và  mắt ông, rồi cho người mổ bụng xem bọn sứ thần An Nam to gan lớn mật đến đâu. Hà nh động hèn hạ của nhà  Minh nà y diễn ra và o năm 1639, chỉ hai năm sau ngà y Thám hoa Giang Văn Minh dẫn đoà n đi sứ. Lúc đó ông 57 tuổi.

Mặc dù nghĩa vụ đi sứ dở dang nhưng đoà n sứ bộ do Thám hoa Giang Văn Minh dẫn đầu đã tử rõ khí phách hiên ngang của người dân An Nam không khuất phục trước ách đô hộ của Trung Quốc. Sau khi thi hà i ông được đưa vử nước, để tử lòng thương tiếc một tà i năng ngoại giao hiếm thấy của kinh thà nh, vua Lê Thần Tông và  chúa Trịnh Tráng đã đến bái kiến linh cữu ông và  ban tặng câu Sứ bất nhục quân mệnh, khả vi thiên cổ anh hùng (tức là  Sứ thần không là m nhục mệnh vua, xứng đáng là  anh hùng thiên cổ, đồng thời truy tặng ông tước hiệu Công bộ tả thị lang Minh quận công.

Hiện nay, ngôi mộ của Thám hoa Giang Văn Minh vẫn được họ tộc chăm chút cẩn thận tại Аường Lâm, được xây bệ gạch tay ngai, xung quanh có tường hoa để bảo vệ. Còn ngôi quán, nơi là m lễ an táng ông, được nhân dân địa phương gọi là  quán Giang để ghi nhớ sự tích của vị sứ thần khảng khái đã là m vẻ vang cho đất nước. Tên của Thám hoa Giang Văn Minh cũng được đặt cho một ngôi trường ở Thị xã Sơn Tây và  một con phố ngay giữa Thủ đô Hà  Nội cũng vinh dự mang tên người anh hùng trên mặt trận ngoại giao nà y.

HanoiTV