Vử Đình Chèm
Theo thần phả, Lý à”ng Trọng - Đức Thánh Chèm, sinh ở làng Chèm và o thời Hùng Duệ Vương, mất và o thời Thục An Dương Vương. à”ng là người có công đánh tan quân xâm lược nhà Tần dưới thời Thục An Dương Vương.
Đến đời Đường, đửn thử ông được tạo lập ngay tại nửn nhà cũ. Vử sau, nhân dân xây đình và tôn ông là m Thà nh hoà ng của là ng để thử tại đình.
Đình Chèm (Nguồn: Internet) |
Đình Chèm được xây dựng theo lối kiến trúc nội công ngoại quốc, chắc chắn và công phu: Công trình kiến trúc tam quan ngoà i bố trí đầy đủ tứ linh long, ly, qui, phượng quay ra bốn hướng. Tam quan trong xây ba gian, bốn mái và năm cửa ra và o. Khu nhà bia, sân đình, tả hữu mạc, phương đình tám mái và tòa đại bái, hậu cung tạo thà nh hình chữ công.
Bên trong đình, các cột, mái được chạm trổ tinh vi với hình rồng cuốn thủy, rồng mây, tứ linh, cá hóa rồng, hoa lá, vân mây sóng nước mang đậm nét nghệ thuật kiến trúc thời Lê Trung hưng (thế kỷ 18). Hậu cung có án thử, sập thử, long ngai, bà i vị, khám thử vợ chồng ông Trọng và các tượng chầu. Tổng thể được xếp theo trục hoà ng đạo Đông, Bắc, Tây, Nam.
Tại đình còn giữ được cuốn sách chữ Hán ghi các đạo sắc, lễ nghi, văn tế, cách đắp tượng dưới thời Nguyễn; ba sắc do các vua triửu Nguyễn phong thần cho Lý à”ng Trọng; bốn bia đá, một tấm thời Lê Cảnh Hưng và ba tấm bia thời Nguyễn; hai chuông đồng đúc dưới thời Nguyễn; 15 câu đối, tám bức hoà nh phi và 10 pho tượng thử. Pho tượng Lý à”ng Trọng cao hơn 3m, bằng gỗ sơn son thếp và ng rất sinh động.
Tại khuôn viên Đình Chèm có hệ thống máng dẫn nước mưa được đúc bằng đồng và o các năm 1748, 1756, thời vua Lê Hiển Tông và thời vua Minh Mệnh (nhà Nguyễn) năm 1824. Ngoà i ra trong đình còn rất nhiửu đồ thử các loại đửu có giá trị nghệ thuật cao như chiếc lư hương ngà n năm tuổi rất quý hiếm.
Đình Chèm đã qua nhiửu lần trùng tu, sửa chữa và xây thêm như hậu cung là m năm 1621, tam quan sửa lại năm 1773 và các lần trùng tu, sửa chữa đình và o các năm 1792, 1797, 1885, 1903 và 1913.
Đình Chèm nằm cạnh sông Hồng. Và o năm 1903, đình được nâng lên cao thêm 2,4m chỉ bằng các phương tiện thủ công. Cả một ngôi đình nặng hà ng trăm tấn toà n bằng gỗ quý với những cột kèo phức tạp được nâng lên cao ngang với mặt đê sông Hồng khi đó.
Năm 1990, Đình Chèm được công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia.
Hội là ng Chèm
Nhắc đến hội Chèm, ca dao có câu:
"Thứ nhất là hội Cổ Loa Thứ nhì hội Gióng, thứ ba hội Chèm"
Hội Chèm diễn ra từ ngà y 14-16/5 âm lịch, trong đó ngà y 15 là ngà y hội chính. Hội Chèm diễn ra trang trọng với cuộc rước nước, rước mã, rước văn, lễ mộc dục (tắm tượng thánh), lễ phát tấu (cúng Phật). Lễ rước nước là trang trọng nhất.
Những người mặc y phục cổ truyửn, sau khi tập kết trước cửa đình, hà nh hương xuống ba chiếc thuyửn lớn xuôi theo sông Hồng tới Thác Bạc cạnh đửn à‚m hồn, rồi quay lại trước cửa đình. Quãng đường đi vử khoảng 4km. Tại cửa sông diễn ra nghi thức lấy nước, ba chiếc thuyửn quay ba vòng để một lão nông lấy gáo đồng múc nước trong cho và o đôn cổ. Tiếng trống, tiếng reo hò, cử bay phấp phới cùng tiếng hô ù éo vang dội mặt sông trên đê.
Lấy nước xong, đoà n thuyửn vử Nhà Mã cách cổng đửn 1km lên Bến Ngự rồi một cuộc diễu hà nh rầm rộ với các đoà n Phù Giá, Thủ Hiệu, Gươm Sai, Lịch Triửu, Kiệu Đức à”ng, Kiệu Đức Bà , Huyửn Sư, Quan Viên, Chức Sắc, các bà vãi.
Hội là ng Chèm |
Nhịp trống, nhịp chiêng dồn dập. Các em nhử múa sênh tiửn rất vui mắt. Đám rước dừng lại trước sân đình đợi là m lễ Mộc dục. Lễ rước Văn tế tiến hà nh và o chiửu tối. Văn tế đặt ở Long Đình rước từ nhà ông trưởng văn ra đình. Trong ngõ, bên đường, cạnh đê, dân là ng bầy mâm cúng, hương trầm tửa thơm. Nhà sư là m lễ phát tấu, diễn xướng kể lại công đức của Lý à”ng Trọng và cầu cho mưa thuận gió hòa, sóng yên bể lặng.
Hội Chèm cho đến nay vẫn duy trì các trò chơi dân gian như bơi chải, kéo co, thả diửu, thả chim bồ câu. Riêng thi bơi trải là đặc sắc. Bà i ca dao cổ năm 1921 ghi:
"Ba dân mở hội tháng Năm Mười hai hạ chải, hôm rằm bơi thi. Ba dân đánh trống chỉ huy Thuyửn nà o đạt nhất, cử thì có mà o. Cả Thuyết đứng mũi chịu sà o, Hai Dương đánh mõ, Trương Giao phất cử. Lái Hà nh khéo lượn thủy cơ, Dân ta đâu có được cử mà tranh..."
Ba dân được đử cập ở đây là ba là ng gồm là ng Chèm (Thụy Phương) và hai là ng kết chạ là là ng Hoà ng (Hoà ng Xá) và là ng Mạc (Liên Mạc).