Chèm (có thuyết cho rằng phải viết là Trèm) là tên nôm, tên chữ là Thụy Điửm, sau đổi là Thụy Hương, rồi lại đổi là Thụy Phương. Chữ Chèm, Trèm, tiếng Việt cổ là T™lem, và khi đọc theo lối Hán hoá là Từ Liêm, có thể coi đó là nguồn gốc tạo nên tên gọi huyện Từ Liêm ngà y nay. Là ng Chèm xa xưa có người họ Lý tên Thân, hiệu là à”ng Trọng. à”ng có vóc dáng khổng lồ.
Thời Hùng Duệ Vương, nước ta có giặc ài Lao, Chiêm Thà nh và phía Bắc thường quấy nhiễu biên thuử³, Lý à”ng Trọng nhận chức Chỉ huy Sứ giết tan giặc, mở mang bử cõi. Sang thời An Dương Vương, nhà Tần bị giặc Hung Nô quấy phá, vua Tần sai sứ sang cầu Thục Phán cho tướng tà i sang giúp. Vua Thục cử Lý à”ng Trọng đi sứ nhà Tần, vua Tần phong ông là Tư Lệnh Hiệu Uý thống suất 10 vạn quân đi dẹp giặc Hung Nô.
Thắng trận khải hoà n, vua Tần phong ông chức Phụ Tín Hầu, gả công chúa cho và giữ ở lại nước Tần. Nhưng Lý Thân nhất quyết vử lại quê nhà , công chúa nước Tần cũng theo vử sống với ông ở Chèm cho tới khi mất. Lý à”ng Trọng trở thà nh Thà nh hoà ng của là ng. Trong thánh phả nước Việt, Lý à”ng Trọng đứng hà ng thứ ba sau Thánh Tản và Thánh Gióng. Đình là ng Chèm có lẽ là ngôi đình duy nhất ở nước Nam ta quay hướng vử phương bắc. Hình như đó là cái cách dân Chèm biểu lộ thà nh ý với bà công chúa sống xa xứ nhưng rất mực yêu chồng được luôn hướng vử nơi quê cha đất tổ.
Đình nằm trên diện tích gần 2 mẫu, dáng uy nghi theo thế chữ đinh với những cây cột trụ to. Những mái cong của ngôi đình được phủ lên một lớp rêu phong cổ kính. Đình Chèm được xây dựng theo lối kiến trúc nội công ngoại quốc, chắc chắn và công phu, bên trong đình, các cột, mái được chạm trổ tinh vi, bên ngoà i có tam quan, có bốn cột đồng trụ. Gian trong cùng của ngôi đình có hai bức tượng Thượng Đẳng Thiên Vương cao 2 trượng và bức tượng công chúa nước Tần - Hoà ng phi Bạch Tỉnh Cung cao 8 trượng bằng gỗ sơn son thếp và ng tạc năm 1888.
Hiện ở Đình Chèm vẫn còn lưu giữ được nhiửu hình chạm khắc gỗ phong cách thế kỷ 18, cùng chiếc lư hương ngà n năm tuổi rất quý hiếm. Để tưởng nhớ công lao của Lý à”ng Trọng, nhân dân là ng Chèm (Thụy Phương); là ng Hoà ng (Hoà ng Xá); là ng Mạc (Liên Mạc) cùng lập đửn thử và lo cúng tế từ xưa tới nay. Điửu ngạc nhiên là hầu hết các lễ hội đửu tổ chức và o mùa xuân nhưng riêng có hội là ng Chèm mở giữa mùa hè. Diễn ra từ ngà y 14 đến ngà y 16 tháng 5 âm lịch, các nghi thức quan trọng của lễ hội đửu được tổ chức tại đình Chèm trong đó có lễ rước nước rất long trọng.
Hà ng ngà n năm nay, Đình Chèm vẫn ngự sát bên bử sông Hồng nặng phù sa. Theo sách Việt điện u linh cũng như ngọc phả của đình thì đình Chèm được xây dựng từ thế kỷ thứ VII. Từ khi khởi dựng đến nay, do tọa lạc trên khu đất sát kử bử sông Hồng, nên hà ng năm, và o mùa mưa lũ, đình Chèm luôn bị ngập lụt. Đình Chèm đã qua nhiửu lần trùng tu, sửa chữa lớn và mở rộng. Theo văn bia tại đình và dòng chữ Hán ghi trên thượng lương thì tòa Hậu cung được xây dựng năm Long Đức thứ 3 (1631) và được trùng tu năm Quang Trung thứ 5 (1792) năm Cảnh Thịnh thứ nhất (1793); tòa Đại bái được sửa chữa năm Cảnh Thịnh thứ 5 (1797)...
Đặc biệt và o những năm 20 của thế kỷ XX, dân vùng Chèm đã tiến hà nh một việc quan trọng và táo bạo là nâng toà n bộ ngôi đình lên cao. Kíp thợ thủ công của là ng Diễn Văn Trì, Từ Liêm do thợ cả Vương Đình Địch chỉ huy kiệu đình. Mái ngói được dỡ ra, các cột đình được buộc chằng với nhau chắc chắn. Kử¹ thuật nâng đình được thực hiện theo phương pháp đòn bẩy bằng cách mỗi chân cột đóng một chiếc đinh bừa, đầu kia buộc một chiếc quang gánh. Mỗi chân cột đình cử một trai đinh phụ trách, khi ra hiệu lệnh bằng một tiếng trống thì các trai đinh đứng chân cột bử một viên gạch bát và o chiếc quang. Cho đến khi số viên gạch đủ nặng để nâng đửu các chân cột đình lên vừa đủ thì các trai đinh nà y lại nhét ngay một viên gạch bát xuống dưới chân cột rồi lấy cát lấp và o giữ cho nửn luôn chắc.
Cứ như vậy cho đến khi đình có độ cao vừa bằng mặt đê sông Hồng. Bằng bà n tay và khối óc, người dân là ng Chèm đã lập nên kử³ tích bằng việc nâng toà n bộ kiến trúc của đình cao hơn nửn cũ 2,4m chỉ bằng các dụng cụ của nhà nông. Cuộc kiệu đình nà y tốn hết 500 đồng tiửn Đông Dương mà công xá ngà y ấy chỉ có 7 xu một ngà y.
Đến nay, tất cả kiến trúc của đình Chèm vẫn được bảo tồn khá nguyên vẹn, từ bố cục đến kiểu dáng cả một tổng thể những di tích cổ kính nằm hà i hòa trong một không gian rộng thoáng, bên sông Hồng...