Có thể khẳng định vai trò duy nhất cầm quyửn của Đảng Cộng sản Việt Nam được tạo lập không phải bởi Hiến pháp mà bởi những thà nh tựu to lớn nhân dân ta đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng duy nhất lãnh đạo, đảng duy nhất cầm quyửn, là một sản phẩm khách quan của lịch sử dân tộc ta.
Thực tiễn cách mạng nước ta từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời cho thấy chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam mới đủ khả năng lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi nà y đến thắng lợi khác:
Một là , Đảng Cộng sản Việt Nam đã giải quyết thà nh công cuộc khủng hoảng đường lối cứu nước, giải phóng dân tộc ở cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Trong thời kử³ nà y, các phong trà o yêu nước đã đi theo nhiửu hướng khác nhau: Phong trà o Cần Vương đấu tranh già nh độc lập dân tộc theo ý thức hệ phong kiến; Nguyễn Thái Học và đảng do ông thà nh lập chủ trương cứu nước theo ý thức hệ tư sản; cụ Phan Bội Châu đã thực hiện "Đông du" với ý nguyện dựa và o Nhật Bản để già nh độc lập dân tộc; cụ Phan Châu Trinh định dựa và o Pháp để canh tân đất nước; Phan Văn Trường chủ trương dựa và o con đường nghị viện; một số nhà yêu nước theo ý thức hệ phong kiến đã nghĩ tới con đường bạo lực, như Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Trung Trực, Nguyễn Hữu Huân, Trương Quyửn, Trương Định, Phan Đình Phùng, Hoà ng Hoa Thám... Mặc dù không thiếu lòng dũng cảm và quyết tâm, tất cả các phong trà o nà y đửu thất bại. Nguyên nhân cơ bản là không có đường lối cứu nước nà o đương thời có thể chỉ ra đúng con đường và cách thức giải quyết vấn đử cấp bách của dân tộc: Độc lập và dân chủ. Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tìm ra con đường cho phép giải quyết đòi hửi đó của lịch sử dân tộc. Nhử vậy, cuộc khủng hoảng đường lối cứu nước, giải phóng dân tộc đã được giải quyết. Thà nh công đó tạo thà nh cơ sở thực tiễn quan trọng nhất xác lập vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam trong cuộc đấu tranh già nh độc lập dân tộc.
Hai là , Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo kháng chiến giữ vững nửn độc lập dân tộc, đánh thắng thực dân Pháp và đế quốc Mử¹, đưa sự nghiệp đó đến thắng lợi hoà n toà n.
Ba là , Đảng Cộng sản Việt Nam đã giải quyết thà nh công cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội và o những năm 80 của thế kỷ trước, đưa đất nước vững bước trên con đường đẩy mạnh CNH, HĐH với mục tiêu đến năm 2020 cơ bản trở thà nh nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Như vậy, với những thà nh tựu to lớn mà nhân dân ta đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng, Đảng Cộng sản Việt Nam được nhân dân suy tôn là người duy nhất có đủ phẩm chất và năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyửn ở Việt Nam. Điửu 4 của Hiến pháp ghi nhận thực tế lịch sử ấy. Từ đó, cũng có thể rút ra một điửu sau đây: Do được thực tiễn lịch sử xác lập, Điửu 4 của Hiến pháp sẽ được nhân dân ta, Quốc hội ta thống nhất, ủng hộ. Tuy nhiên vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng ta có vững bửn hay không được quyết định bởi việc Đảng ta nói chung, các cấp ủy Đảng, tổ chức Đảng các cấp, cán bộ - đảng viên có giữ vững phẩm chất, nâng cao năng lực lãnh đạo của mình để đáp ứng được nhu cầu của nhân dân hay không; Đảng có thực sự là biểu tượng vử danh dự, lương tâm, trí tuệ của dân tộc hay không. Nếu cứ để tình trạng như hiện nay (một bộ phận không nhử cán bộ - đảng viên thoái hóa biến chất không chỉ vử phẩm chất đạo đức mà cả tư tưởng chính trị; một số tổ chức Đảng không giữ được vị trí lãnh đạo của mình...) ngà y một trầm trọng thêm, thì những suy thoái đó sẽ là m xói mòn nghiêm trọng niửm tin của nhân dân và o Đảng, thế lực khác sẽ xuất hiện để lấp chỗ trống đó. Khi ấy đặt trước Đảng ta một sự lựa chọn nghiệt ngã: Một là , mất tất cả; hai là , phải chia sẻ quyửn lãnh đạo với các đảng đối lập. Thực tế thời kử³ năm 1945-1946 là một minh chứng. Khi đó, vấn đử không phát sinh từ sự thoái hóa của Đảng mà từ tương quan lực lượng trên vũ đà i chính trị. Một bên là Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa non trẻ, thiếu thốn đủ điửu với bao khó khăn chồng chất mà chế độ cũ để lại; một bên là 20 vạn quân Tà u - Tưởng, mấy nghìn quân Ấn, mấy nghìn quân Anh chưa rút khửi nước ta, Chính phủ Trần Trọng Kim chưa tan rã hoà n toà n, đế quốc Pháp đang lăm le ngoà i biên giới. Nhà nước cách mạng trong tình trạng "ngà n cân treo sợi tóc" như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra. Khi ấy, không thừa nhận một số đảng đối lập và cho phép họ tham gia chính quyửn thì chế độ mới do cách mạng lập ra sẽ rơi và o nguy cơ lớn. Trong bối cảnh đó, Đảng ta đã chấp nhận sự tồn tại của hai đảng chính trị đối lập: Việt Nam quốc dân Đảng (Việt Quốc), Việt Nam cách mạng Đảng (Việt Cách). Quốc hội khóa I có trên 70 ghế thuộc hai đảng đó không cần thông qua bầu cử. Tuy nhiên, khi quân Tưởng rút chạy khửi Việt Nam, hai đảng trên cũng cuốn gói chạy theo.
Với những lý do nêu trên, có thể khẳng định sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là tất yếu khách quan trong tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam. Sự cần thiết duy trì Điửu 4 của Hiến pháp năm 1992 là không thể phủ nhận. Vử hình thức diễn đạt của Điửu 4 trong Dự thảo: Hiến pháp phải là một văn bản cô đọng, súc tích. Cà ng ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ cà ng tốt.