Đó là khi chẳng may có người thân qua đời, thay vì ghé trại hòm mua áo quan như thường thấy ở nhiửu địa phương thì thân nhân người quá cố và o Di tích Nhà Lớn, là m thủ tục "thỉnh" chiếc "bao quan" có mà u đử như máu vử, để thi hà i và o đấy. Sau khi di quan tới nghĩa trang, chiếc bao quan được mở nắp, thi hà i người chết được khiêng ra và được đưa xuống huyệt mộ bằng những dây vải trắng. Sau công đoạn nà y, chiếc bao quan kia được thân nhân người chết là m thủ tục trả vử Nhà Lớn...
Với kiểu táng tục nà y, các bậc cao niên ở Long Sơn cho biết, đã có cả ngà n người khi vử với đất mẹ cũng chỉ "mặc thoáng qua" chiếc bao quan kử³ lạ ấy! Khi biết ở Long Sơn có táng tục kử³ lạ "chết chung hòm" kia, chúng tôi rất đỗi ngạc nhiên, lòng cứ nghĩ điửu đó không thể. Đơn giản bởi vùng đất chôn chung ấy chỉ cách TP Hồ Chí Minh khoảng 70km, ở cự ly quá gần như thế, lẽ nà o một phong tục nhuốm sắc mà u kử³ lạ, thậm chí có thể nói là kử³ bí kia lại chẳng được mấy ai biết đến? Nên khi nghe chuyện "chết chung hòm" ở Long Sơn, chúng tôi bán tín bán nghi, cứ nghĩ đó là chuyện ở nơi núi rừng xa xôi, thâm u nà o đó tại các tỉnh ở vùng rừng núi Tây Nguyên. Còn nhớ 3 tháng trước, trong chuyến điửn dã trên đỉnh đèo Sê San ở xã Ia Kreng, thuộc địa phận huyện Chư Pảh, tỉnh Gia Lai, chúng tôi lạc và o thế giới của người Gia Rai bản địa.
Chính tại nơi nà y, câu chuyện vử một bộ tộc chôn chung, nhiửu người là thân nhân của nhau khi qua đời được chôn chung trong chiếc hòm độc mộc, khiến các thà nh viên chuyến đi nghe mà rợn người. Theo đó, khi có người chết, dân là ng sẽ quật mồ, nhét thi hà i người mới qua đời và o chiếc hòm rồi hạ thổ. Chuyện quật mồ chỉ kết thúc khi nà o chiếc hòm độc mộc ấy không thể nhét thêm xác người. Căn nguyên của luật tục nà y bắt nguồn từ suy nghĩ giản đơn của tộc người: Khi sống thì ở chung nhà , lúc chết thì nằm chung mộ cho vui, cho có bầu bạn.
Chiếc bao quan kử³ lạ. |
Trở lại chuyện chết chung hòm ở Long Sơn, để tận tường sự thật, chúng tôi quyết định lên đường. Từ TP Hồ Chí Minh, sau gần 2giử phóng xe máy trên quốc lộ 51, đến ngã 3 Long Sơn (cách thị xã Bà Rịa khoảng 10km), chúng tôi rẽ phải, qua cầu Ba Nanh và đụng núi Nứa (xã Long Sơn), nơi mà theo những lời đồn đại là "vương quốc" của táng tục chết chung hòm!
Để có những thông tin chính xác vử táng tục kử³ lạ, theo sự hướng dẫn của người dân, chúng tôi và o khuôn viên Di tích Nhà Lớn và được những người trông coi di tích giới thiệu gặp ông Lê Minh Lược, cháu cố của ông Trần - người tạo lập nên quần thể Di tích Nhà Lớn hùng vĩ với lầu đửn, thà nh quách chẳng khác gì cung điện và được cư dân địa phương kính cẩn gọi là à”ng Nhà Lớn. à”ng Lược ngoà i 70 tuổi, râu dà i bạc trắng, tóc búi củ tửi, da dẻ hồng hà o, nhìn như ông tiên. Qua trò chuyện với ông, chúng tôi mới biết vị tiửn hiửn mở đất ở nơi nà y chính là ông Lê Văn Mưu, người được dân Long Sơn kính cẩn gọi là à”ng Nhà Lớn.
Đưa chúng tôi đi tham quan di tích, vừa đi ông Lược vừa kể chuyện. Từ chia sẻ của ông, chúng tôi được biết ông Lê Văn Mưu sinh năm 1856, tại là ng Thiện Khánh, tổng Hà Thà nh, quận Giang Thà nh, tỉnh Hà Tiên (nay là tỉnh Kiên Giang) là một nghĩa binh chống Pháp vùng Bảy Thưa-Láng Linh (tỉnh An Giang) do quản cơ Trần Văn Thà nh là m thủ lĩnh. Sau khi cuộc khởi nghĩa thất bại (1867-1873), ông Lê Văn Mưu cùng 1 số nghĩa binh lánh nạn và o vùng núi An Định (thuộc địa phận xã Ba Chúc, huyện Tri Tôn, An Giang). Năm ông Lê Văn Mưu 31 tuổi thì thực dân Pháp đánh và o vùng núi An Định-núi Tượng. Trước dã tâm truy sát gắt gao của kẻ thù, ông Lê Văn Mưu cùng nghĩa binh lên thuyửn theo con nước đi vử miửn Đông Nam Bộ, lánh nạn. Năm 1900, ông cùng nghĩa binh, gia quyến tới định cư tại núi Nứa, lập nên ấp Bà Trao, nay là xã Long Sơn. Các bậc cao niên ở Long Sơn kể lại, thời gian đầu, vị tiửn hiửn Lê Văn Mưu dựng tạm và i chòi tranh 3 gian 2 chái là m chỗ ở cho gia đình rồi khởi sự khai hoang. Để mai danh ẩn tích, ông tự xưng là "ông Trần". Bằng sự kết hợp cả tín ngườ¡ng, bà n tay lao động và óc tổ chức của mình, từ năm 1910-1928, ông Trần triển khai xây dựng quần thể Nhà Lớn với những đửn đà i lầu gác đồ sồ, uy nghi. Sau đó ông cho xây dựng trường học, chợ, đình là ng. Năm 1935, ông Trần qua đời, được người dân Long Sơn tôn là thà nh hoà ng (người có công khai phá, lập là ng), cũng từ đây, hình thà nh tín ngườ¡ng đạo à”ng Trần. Năm 1991, quần thể di tích lịch sử Nhà Lớn và đạo à”ng Trần được Bộ VH-TT công nhận. Những ngà y ở Long Sơn, chúng tôi được biết có đến ¾ dân số ở xã theo tín ngườ¡ng đạo à”ng Trần với những dấu hiệu rất đặc trưng, độc đáo như mặc đồ bà ba đen, tóc búi củ tửi, hiếm khi đội nón, để râu dà i, đi chân trần...
Cội nguồn của "ngoại hình lạ" nà y theo giải thích của bà Lê Thị Hạnh, người có cụ cố từng theo à”ng Nhà Lớn đến lập ấp Bà Trao ngà y nà o, bắt nguồn từ những tháng ngà y đầu khi cụ cố của bà cùng gia quyến đặt chân đến núi Nứa Lúc mới dừng chân ở núi Nứa, tiửn nhân cực khổ trăm bử. Do phải thường xuyên bám đất bám rừng, lao động vất vả, nặng nhọc nên các cụ chọn vải đen để đỡ công giặt giũ. Truyửn thống đầu để trần, đi chân trần là thông điệp của người theo đạo Nho với lý sống "đầu đội trời chân đạp đất".
Theo lý lịch di tích, đạo à”ng Trần là tín ngườ¡ng mang bản sắc riêng chỉ có ở Long Sơn, một tín ngườ¡ng không hử có kinh kệ, chuông mõ, ăn chay, cũng như tệ mê tín dị đoan. Chỉ có lời dạy của ông Trần (còn gọi à”ng Nhà Lớn) được truyửn khẩu trong dân gian từ thế hệ nà y sang thế hệ khác, được nhân dân kính trọng, lưu truyửn và tuân theo một cách tự giác. Nhưng không chỉ lạ ở cách ăn vận, cộng đồng theo đạo à”ng Trần ở Long Sơn còn lạ trong chuyện cưới hửi, tang ma với đỉnh điểm là chiếc bao quan mà nhiửu người truyửn khẩu.
Hiểu được sự háo hức của chúng tôi, một kử³ lão Nhà Lớn tình nguyện đưa chúng tôi đến khu vực chợ cổ Long Sơn, để được tận mắt chiêm ngườ¡ng chiếc bao quan ngà n người mà ngà y thường chẳng mấy ai được phép đặt chân, cửa chỉ được mở khi Di tích có lễ lớn. Qua và i lớp khóa, sau bao háo hức, rồi chúng tôi cũng được tận mắt chiếc bao quan kia. ành nắng le lói xuyên qua các ô thông gió soi rõ chiếc bao quan được để trên 2 chiếc ghế mà người địa phương gọi là bộ ngựa, có hình dáng giống một ngôi mộ mái vòm, sơn mà u đử như máu, mặt trước của được vẽ hình hoa sen cách điệu. Mà u đử ấy không phải được phết sơn mà do đèn cầy tan chảy. "Nắp của chiếc bao quan được đan bằng lồ ô, các cạnh viửn tre, mặt dưới của nó là phiến gỗ. Khi có hữu sự, thân nhân người chết chỉ việc liên lạc với Nhà Lớn, thỉnh bao quan vử, mở nắp đậy, để người chết và o rồi chụp lại, thắp nến đưa ra nghĩa trang. Lúc chôn chỉ cần giở nắp bao quan, khiêng thi hà i đưa xuống mộ, sau đó bao quan được đưa vử chỗ cũ chứ không chôn cùng người chết"
- ông Lược cho biết và nhấn mạnh: "Đặc thù an táng ở Long Sơn khác những nơi khác là không để lâu. Những nơi khác họ có thể quà n xác nhiửu ngà y, có khi cả tuần lễ nhưng ở Long Sơn thì không quá 24h đồng hồ. Người Long Sơn có câu nói vử quy định táng tục như sau: "Sáng tử chiửu táng - chiửu tử sáng táng". Nói dễ hiểu là sáng chết chiửu chôn, chiửu chết sáng chôn".
Chúng tôi theo một phiên hầu ra khu nghĩa trang họ tộc Nhà Lớn nằm dưới chân núi Nứa. Phiên hầu là những người ngoà i gia tộc, tình nguyện và o khu di tích góp sức trong việc gìn giữ an ninh trật tự, bảo vử di sản, cúng kiếng..., tựa như Phật tử là m công quả ở các chùa. Nghĩa trang là nơi an nghỉ của à”ng Nhà Lớn - người tạo lập Nhà Lớn cùng những lớp tiửn nhân, thân tộc gắn bó với ông trên hà nh trình bôn ba, xây dựng Long Sơn từ vùng đất hoang trở thà nh vùng đất trù phú như hôm nay. Mộ ở Long Sơn rất lạ, không có bia, không xây dựng cầu kử³, đậm triết lý "sống đồng tịch đồng sà ng, chết đồng quan đồng quách". Ngay cả mộ à”ng Nhà Lớn cũng vậy, không như tưởng tượng của người đời rằng mộ vị thà nh hoà ng phải rất là hoà nh tráng, cao to nhất, mộ à”ng bình dị như những mả mồ khác, chẳng mộ bia danh tánh gì, nếu không được người phiên hầu chỉ dẫn, chúng tôi chẳng thể nà o nghĩ đó là mộ à”ng Nhà Lớn.
Cà ng tiếp cận những cư dân Long Sơn, chúng tôi cà ng vỡ lẽ nhiửu tình tiết quy định tang ma có phần kử³ lạ, tiến bộ. Việc an táng, hạ huyệt không coi ngà y giử kiết hung, gia chủ không nhận tiửn phúng điếu, không có cảnh khóc lóc ỉ ôi, đốt rải và ng mã, kèn trống đình đám... Cũng không có chuyện phải giết heo mổ gà , ăn uống linh đình. Người đến chia buồn với gia đình thân chủ thường xách theo bánh trái, chè xôi góp sức theo tinh thần việc đại sự của nhà hà ng xóm cũng là việc riêng của gia đình mình. Khi hạ huyệt là thủ tục xã tang được tiến hà nh tại chỗ. "Nguyên nhân của việc táng và xả tang nhanh theo giải thích của các cụ là à”ng Nhà Lớn quy định như vậy là nhằm mục đích thực hà nh tiết kiệm, giảm các thủ tục rườm rà ... Con cháu đời sau thấy quy định đó hay, thiết thực nên cứ thế noi theo". Tại nghĩa trang, chúng tôi gặp cụ Lê Văn Thuyửn, người có cụ cố từng là nghĩa binh theo à”ng Nhà Lớn ngược dòng chảy đến núi Nứa lập ấp Bà Trao ngà y nà o.
Cụ Thuyửn tuổi ngoà i 80 nhưng khửe mạnh như người khoảng 60 tuổi. Chúng tôi hửi cụ căn nguyên của việc hà ng người người ở Long Sơn khi vử với đất mẹ đửu phải đi qua chiếc bao quan kử³ lạ kia, cụ Thuyửn bật mí rằng ẩn sau chiếc bao quan có nhiửu ý nghĩa sâu xa. "Từ thuở khai sơn lập ấp, dù trên núi Nứa lúc bấy giử cây rừng nhiửu lắm nhưng do thấy được viễn cảnh cây rừng đến một ngà y nà o đó bị đốn hạ, mặt khác do không muốn bà con phải nhọc sức, tốn kém trong việc mua hay tạo áo quan nên tiửn nhân đã có sáng tạo và bước đột phá trong việc tạo ra chiếc bao quan".
Sau khi cho biết người chết trước khi được đặt trong bao quan được tắm rửa sạch sẽ và quấn vải kín toà n thân, cụ Thuyửn bật mí: "Việc an táng bằng bao quan còn có thông điệp khác là thể hiện sự bình đẳng giữa các thà nh viên trong cộng đồng, rằng khi nhắm mắt xuôi tay, kẻ hèn người già u, thường dân hay người có chức sắc cũng ngang hà ng, bình đẳng như nhau. Mả mồ quy định không lập bia cũng nhằm tránh nạn háo danh hay khoe mẽ giữa các dòng họ. Nói chung khi sống và lúc chết, các thà nh viên ở cộng đồng đửu cố gắng thực hiện đúng tôn chỉ "sống đồng tịch đồng sà ng, chết đồng quan đồng quách".
Táng tục kử³ lạ "chết chung hòm" ở Long Sơn là vậy. Xét trong bối cảnh hiện nay, khi chủ trương tiết kiệm trong tang ma được Nhà nước phát động thì rõ rà ng, táng tục nà y đã thể hiện những ý nghĩa sâu xa, hợp lòng người. Đây có lẽ là lý do mà người dân Long Sơn gìn giữ, noi theo cả trăm năm qua. Điửu chúng tôi rất lấy là m tiếc là lẽ ra, táng tục nà y cần được tuyên truyửn, phổ biến để các địa phương khác học tập, nhất là giữa lúc tại nhiửu địa phương đang chạy đua việc xây dựng mả mồ như những cung điện, thà nh quách, lãng phí vô cùng trong lúc người sống thì phải nhịn ăn nhịn mặc để xây nhà cho người chết!